Chuyển đến nội dung chính

TÌM HIỂU KINH PHẬT - TƯƠNG ƯNG BỘ TẬP 3 - Chương 6 - Tương Ưng Phiền Não

TÌM HIỂU KINH PHẬT - TƯƠNG ƯNG BỘ TẬP 3 - Chương 6 - Tương Ưng Phiền Não

PHẦN CHÁNH KINH

KINH TƯƠNG ƯNG TẬP 3
[27] Chương VI: Tương Ưng Phiền Não

I. Con Mắt (S.iii,232)
1-2) Nhân duyên ở Sàvathi...
3) -- Này các Tỷ-kheo, dục tham đối với mắt là tùy phiền não của tâm. Dục tham đối với tai là tùy phiền não của tâm. Dục tham đối với mũi là tùy phiền não của tâm. Dục tham đối với lưỡi là tùy phiền não của tâm. Dục tham đối với thân là tùy phiền não của tâm. Dục tham đối với ý là tùy phiền não của tâm.
4) Này các Tỷ-kheo, khi nào vị Tỷ-kheo đối với sáu xứ này, đoạn tận được tùy phiền não, thời tâm vị ấy hướng về ly dục. Do biến mãn với ly dục, tâm vị ấy được xem là kham nhẫn, chứng tri đối với các pháp cần phải giác ngộ.

II. Sắc
(Như kinh trên, chỉ thế vào sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp).

III. Thức
(Như kinh trên, chỉ thế vào nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức).

IV. Xúc
(Như kinh trên, chỉ thế vào nhãn xúc, nhĩ xúc, tỷ xúc, thiệt xúc, thân xúc, ý xúc).

V. Thọ
(Như kinh trên, chỉ thế vào thọ do nhãn xúc sanh, thọ do nhĩ xúc sanh, thọ do thiệt xúc sanh, thọ do thân xúc sanh, thọ do ý xúc sanh).

VI. Tưởng
(Như kinh trên, chỉ thế vào sắc tưởng, thanh tưởng, hương tưởng, vị tưởng, xúc tưởng, pháp tưởng).

VII. Tư
(Như kinh trên, chỉ thế vào sắc tư, thanh tư, hương tư, vị tư, xúc tư, pháp tư).

VIII. Ái
(Như kinh trên, chỉ thế vào sắc ái, thanh ái, hương ái, vị ái, xúc ái, pháp ái).

IX. Giới
(Như kinh trên, chỉ thế vào địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới, không giới, thức giới).

X. Uẩn (S.iii,234)
1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...
3) -- Này các Tỷ-kheo, dục tham đối với sắc uẩn là tùy phiền não của tâm. Dục tham đối với thọ uẩn là tùy phiền não của tâm. Dục tham đối với tưởng uẩn là tùy phiền não của tâm. Dục tham đối với hành uẩn là tùy phiền não của tâm. Dục tham đối với thức uẩn là tùy phiền não của tâm.
4) Này các Tỷ-kheo, khi nào vị Tỷ-kheo đối với năm xứ này, đoạn tận được tùy phiền não, thời tâm vị ấy hướng về ly dục. Do biến mãn với ly dục, tâm vị ấy được xem là kham nhẫn, chứng tri đối với các pháp cần phải giác ngộ.

PHẦN GIẢNG GIẢI
CỦA SƯ GIÁC NGUYÊN (TOẠI KHANH)

KINH TƯƠNG ƯNG TẬP 3
Chương 6: Tương Ưng Phiền Não

CON MẮT

“3) Này các Tỷ-kheo, dục tham đối với mắt là tùy phiền não của tâm. Dục tham đối với tai là tùy phiền não của tâm…”.

Nội dung đoạn số 3 này: Niềm đam mê trong 6 căn chính là phiền não của tâm. (Ở đây ngài Minh Châu không dùng chữ ‘phiền não’ mà dùng chữ ‘tùy phiền não’, trong trường hợp này thì đồng nghĩa.)

“4) Này các Tỷ-kheo, khi nào vị Tỷ-kheo đối với sáu xứ này, đoạn tận được tùy phiền não, thời tâm vị ấy hướng về ly dục. Do biến mãn với ly dục, tâm vị ấy được xem là kham nhẫn, chứng tri đối với các pháp cần phải giác ngộ.”

Đoạn 4 trên đây có một sự hiểu lầm. Chữ ‘Đoạn 4 trên đây có một sự hiểu lầm. Chữ ‘khamati’là ‘kham nhẫn’, nhưng ở đây là chữ là ‘kham nhẫn’, nhưng ở đây là chữ ‘khāyati’ có nghĩa là ‘trở thành’, ‘giống như’ (to seem to be, to appear like) chớ không phải là ‘kham nhẫn’. Đây là sự nhầm lẫn thôi, dịch nhiều quá, ngó nhiều quá mệt thì lộn thôi.

Đoạn kinh (3) và (4) dịch lại thế này: “Niềm đam mê trong 6 căn chính là phiền não của tâm. Khi nào đối với sáu căn không còn tiếp tục đam mê nữa thì lúc đó tâm mình hướng về ly dục”.

Bài kinh này nếu không có ai hướng dẫn giải thích, không có chánh tạng chú giải thì rất tối nghĩa, khô khan mịt mù. Nhưng nội dung bài kinh này rất là sâu: Toàn bộ sự hiện hữu ở đời là khổ. Các khổ đều đi ra từ niềm đam mê trong sáu căn.

Do tiền nghiệp quá khứ mà mình sanh ra trong đời này, tùy ở hoàn cảnh môi trường nào mà mình có niềm đam mê khác nhau. Giả dụ, tôi và các vị đang cùng có mặt trên trái đất này, ngày này, tháng này năm này, nhưng rõ ràng trong room này, những người nam đang nghe chúng tôi nói, tôi nghĩ rằng họ có những cái thích không giống tôi, và người nữ thì bên cạnh có những cái thích giống tôi thì họ có vô vàn những cái thích không giống tôi. Chúng ta khác nhau nhiều lắm. Chính từ những cái khác này, cộng với duyên nghiệp chúng sinh, mới tạo ra bao nhiêu thứ sai biệt về văn hóa, nghệ thuật, thời trang, ẩm thực v.v… Ngay cả phương tiện đi lại thì Paris Hilton thích xe của mình (chiếc BMW hay chiếc Bentley) sơn màu hồng phấn (pink); mấy đại gia Trung Đông thì thích mạ vàng; bên Nga thì họ cầu kỳ hơn, họ cẩn pha lê swarovski. Chỉ trong chiếc xe lăn bánh trên đường, xê dịch từ điểm này qua điểm kia thôi mà đã có quá nhiều sai biệt về sở thích rồi, nói chi trong chuyện ăn uống, du lịch… thì đều khác nhau hết. 

Nói gọn lại, trong thế giới này, bao nhiêu thứ sai biệt đều đi ra từ sở thích và duyên nghiệp của chúng sinh. Ví dụ như tôi thích cái đó nhưng duyên nghiệp của tôi không được như quí vị tôi chuyển qua cái thích khác. Giả dụ tôi thích ăn đồ sống, tôi có phước sanh ra làm con người thì tôi ăn gỏi ngựa, gỏi cá sống, ăn sushi; còn nếu vô phước thì tôi sanh làm con cọp con bẹo, những loài ăn thịt sống. Chỉ vậy thôi, chẳng qua là duyên nghiệp đẩy vô cảnh giới đó, chớ không có cái gì hay ho, độc đáo, tốt đẹp trong cuộc đời này hết.

Nội dung bài kinh này: Toàn bộ thế giới quẩn quanh trong niềm đam mê sáu căn. Ngày nào không còn tiếp tục đam mê trong sáu căn thì mới thật sự là giải thoát.

Quí vị trong room nếu là Bắc Tông chắc biết câu kinh này: “Đức Phật là bậc Lưỡng túc tôn. Chánh pháp của Thế Tôn là Ly dục tôn…”. Nghĩa là trong các loài hai chân thì Đức Phật là số một; trên đời này có biết bao nhiêu hệ thống triết lý tôn giáo, pháp môn hành trì v.v… tất cả các tư tưởng, tôn giáo, pháp môn đó mà không dẫn đến ly dục thì còn quẩn quanh. Bà-la-môn giáo ngày xưa có khả năng tu tập thiền định đắc chứng Phi Tưởng Phi Phi Tưởng, nhưng rồi sống hết tuổi thọ trên cõi Phạm thiên Vô sắc đó rồi cũng sanh trở xuống. Hễ ly dục thì sanh về cõi Sắc, ly Sắc thì sanh về cõi Vô sắc. Tới đó là cao nhất, rồi quay trở xuống đơn vị gốc là cõi Dục. Chánh pháp của Thế Tôn được gọi là Ly dục tôn nghĩa là chủ trương lìa bỏ tất cả niềm đam mê dù đam mê trong Dục hay trong Thiền. Cần thì tu thiền, lấy Thiền làm phương tiện để tu tập tuệ quán (tức là lấy Định làm nền tảng cho Tuệ) nhưng không đam mê trong các thiền định và thần thông.

Tinh thần cốt lõi của chư Phật là ly dục, nhờ vậy lìa bỏ Tập đế. Dứt trừ Tập đế thì không còn Khổ đế; chứng ngộ Diệt đế, và con đường ly dục đó chính là Đạo đế.

Bài kinh này đọc lướt qua không thấy gì nhưng đây là bài kinh có nội dung về Bốn Đế. Bài kinh này tuy ngắn nhưng vẽ lại diện mạo và bản chất của thế giới này: quẩn quanh trong niềm đam mê sáu căn.

“4)….Do biến mãn với ly dục, tâm vị ấy được xem là kham nhẫn, chứng tri đối với các pháp cần phải giác ngộ”. Chỗ này ngài Minh Châu dịch ‘kham nhẫn’ là sai. Trong chánh kinh, chữ này là “kammaniyaṃ khāyati”.“Kammaniyaṃ”nghĩa là ‘tự tại’ (useful, helpful).

Một người còn phàm không tu hành, phiền não đầy ắp, trốn khổ tìm vui nhưng không mấy khi được toại nguyện. Một người ly dục, trước tiên là không thích gì hết nên họ không bị thất vọng. Một người tu tập pháp ly dục, dù chưa thành thánh, cảnh giới họ đi về vẫn là cảnh giới cao cấp, sanh ra muốn gì được nấy nhờ tu hành hạnh không thích gì hết.

Ly dục có hai cấp độ: Cấp một: nhờ ly dục mà có ngũ thông, sinh hoạt như ý; cấp hai: Chứng lậu tận thông, tức tứ đạo La-Hán; cộng chung là lục thông (chaḷabhiññā). Thân với tâm họ là một, họ muốn sao cũng được, còn mình thì thân với tâm là hai. Ví dụ, như một người liệt, họ muốn giơ tay nhưng không được, họ muốn nói nhưng lưỡi không làm việc. Còn mình, mình không bị liệt, mình muốn đi đâu thì đi, nhưng mình còn những hạn chế như phải có tiền, có passport, có visa, mình bị ràng buộc quá nhiều. Người không phiền não lại cộng với có thần thông nữa thì họ không bị ràng buộc.

(Đoạn 4) “…tâm vị ấy hướng về ly dục” tâm vị ấy trở nên dễ sử dụng, dễ điều khiển”.

Chữ ‘Tâm’ ‘ở đây ám chỉ cho tâm hành giả đang tu Chỉ và Quán.

‘Ly dục’ (nekkhamma) ở đây ám chỉ cho 4 đạo, 4 quả và Niết bàn (navalokuttaradhamma: 9 Pháp Siêu thế).

Quí vị đã nghe xong bài kinh Con Mắt. Hễ mình còn có tham dục trong sáu căn thì mình còn bị giới hạn sinh hoạt. Ngày nào mình ly dục thì tâm mình trở nên tự tại và đời sống của mình cũng tự tại. Sự tự tại đó gọi là “kammaniyaṃ khāyati”.
_________________________________

Bài viết được trích từ Bài Giảng Kinh Tương Ưng
của Tỳ Khưu Giác Nguyên (Toại Khanh) do Nhị Tường ghi chép lại.
Được lưu trữ dưới dạng âm thanh tại đây: www.vietheravada.net
Bản kinh Pāḷi và Sớ giải tham khảo từ địa chỉ www.tipitaka.org.

Xem thêm: Kinh Tương Ưng Bộ


Nhận xét

  1. Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammãsambuddhassa !

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa!

      Xóa

Đăng nhận xét

BÀI ĐĂNG PHỔ BIẾN

Kinh Tăng Chi Bộ - 10 kiết sử

(III) (13) Các Kiết Sử 1. - Này các Tỷ-kheo, có mười kiết sử này. Thế nào là mười? 2. Năm hạ phần kiết sử, năm thượng phần kiết sử. Thế nào là năm hạ phần kiết sử? 3. Thân kiến, nghi, giới cấm thủ, dục tham, sân. Ðây là năm hạ phần kiết sử.

Thiền Vipassana - Thiền Tứ Niệm Xứ (Thích Trí Siêu)

Thiền Tứ niệm xứ (Thích Trí Siêu -  1998) _______________________ Mục Lục [1] Vài lời cùng bạn đọc [2] Mở đầu  [3] Tứ Niệm Xứ và Bát Nhã Tâm Kinh  [4] Tứ Niệm Xứ và Thiền Tông  [5] Thiền và Tịnh Ðộ  [6] Tứ Niệm Xứ và Bồ Tát Ðạo  [7] Phương pháp hành thiền Tứ Niệm Xứ  [8] Kết luận [9] Phụ Lục - Kinh Quán Niệm Sách Thiền Tứ Niệm Xứ đã được tái bản nhiều lần. Riêng trong kỳ tái bản này sách được bổ túc thêm phần Phụ Lục với Kinh Niệm Xứ, dịch từ "Discourse on the Applications of Mindfulness" (Satipatthanasutta) trong "Middle Length Sayings" (Trung Bộ Kinh) của Pali Text Society, I.B. Horner, 1967.

Kinh Tương Ưng Bộ - Tham luyến

I. Tham Luyến (Tạp 2, Ðại 2,9a) (S.iii,53) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, tham luyến là không giải thoát. Do tham luyến sắc, này các Tỷ-kheo, thức có chân đứng được an trú. Với sắc là sở duyên, với sắc là trú xứ, (thức) hướng tìm hỷ, đi đến tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh. 4) Hay do tham luyến thọ ... tham luyến tưởng ... tham luyến hành, này các Tỷ-kheo, thức có chân đứng được an trú. Với hành là sở duyên, với hành là trú xứ, (thức) hướng tìm hỷ, đi đến tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh. 5) Này các Tỷ-kheo, ai nói như sau: "Ngoài sắc, ngoài thọ, ngoài tưởng, ngoài các hành, tôi sẽ chỉ rõ sự đến hay đi, sự diệt hay sanh, sự tăng trưởng, sự tăng thịnh hay sự lớn mạnh của thức", sự việc như vậy không xảy ra. 6-10) Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với sắc giới; do tham được đoạn tận, sở duyên được cắt đứt, chỗ y chỉ của thức không có hiện hữu. Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với thọ giới... đối với t...

TÌM HIỂU KINH PHẬT - TƯƠNG ƯNG BỘ TẬP 3 - Chương 9 - Tương Ưng Kim Xí Ðiểu

PHẦN CHÁNH KINH KINH TƯƠNG ƯNG TẬP 3 [30] Chương IX: Tương Ưng Kim Xí Ðiểu I. Chủng Loại (S.iii,246) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại Kim xí điểu về sanh chủng. Thế nào là bốn? Loại Kim xí điểu từ trứng sanh, loại Kim xí điểu từ thai sanh, loại Kim xí điểu từ ẩm ướt sanh, loại Kim xí điểu hóa sanh. Này các Tỷ-kheo, đây là bốn loại Kim xí điểu. II. Mang Ði (Tăng 19, Ðại 2, 646a) (S.iii,247) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại Kim xí điểu về sanh chủng. Thế nào là bốn? Loại Kim xí điểu từ trứng sanh... loại Kim xí điểu hóa sanh. Này các Tỷ-kheo, đây là bốn loại Kim xí điểu. 4) Tại đây, này các Tỷ-kheo, các loại Kim xí điểu từ trứng sanh chỉ mang đi các loại Nàga từ trứng sanh, không mang đi các loại Nàga từ thai sanh, từ ẩm ướt sanh và hóa sanh. 5) Tại đây, này các Tỷ-kheo, các loại Kim xí điểu từ thai sanh, mang đi các loại Nàga từ trứng sanh và các loại Nàga từ thai sanh, không mang đi các loại Nàga từ ẩm ướt sanh và các loại...

Kinh Tương Ưng Bộ - Sức mạnh của Đàn Bà

30. VI. Họ Ðuổi Ði (S.iv,247) 1) ... 2) -- Này các Tỷ-kheo, người đàn bà có năm sức mạnh này. Thế nào là năm? Sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, sức mạnh con trai, sức mạnh giới hạnh. 3) Này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc và sức mạnh tài sản, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, nếu người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, sức mạnh con trai, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. 4) Này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh giới hạnh,...

Kinh Tương Ưng Bộ - Vô ngã tưởng

VII. Năm Vị (Vô ngã tưởng) (Ðại 2,7c) (Luật tạng, Ðại phẩm q.1, từ trang 3) (S.iii,66) 1) Một thời Thế Tôn ở Bàrànasi (Ba-la-nại), tại Isìpatana (Chư Tiên đọa xứ), vườn Lộc Uyển. 2) Ở đây Thế Tôn nói với đoàn năm vị Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo". -- "Thưa vâng bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau: 3) -- Sắc, này các Tỷ-kheo, là vô ngã. Này các Tỷ-kheo, nếu sắc là ngã, thời sắc không thể đi đến bệnh hoạn và có thể được các sắc như sau: "Mong rằng sắc của tôi là như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!" 4) Và này các Tỷ-kheo, vì sắc là vô ngã. Do vậy sắc đi đến bệnh hoạn, và không thể có được các sắc: "Mong rằng sắc của tôi như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!"

Kinh Tương Ưng Bộ - Ví dụ mũi tên

6. VI. Với Mũi Tên (S.iv,207) 1-2) ...  3) -- Này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu, cảm thọ cảm giác lạc thọ, cảm thọ cảm giác khổ thọ, cảm thọ cảm giác bất khổ bất lạc thọ. 4) Này các Tỷ-kheo, bậc Ða văn Thánh đệ tử cũng cảm thọ cảm giác lạc thọ, cảm thọ cảm giác khổ thọ, cảm thọ cảm giác bất khổ bất lạc thọ. 5) Ở đây, này các Tỷ-kheo, thế nào là đặc thù, thế nào là thù thắng, thế nào là sai biệt giữa bậc Ða văn Thánh đệ tử và kẻ vô văn phàm phu?

Kinh Tăng Chi Bộ - Ác ý

(VIII) (18) Con Cá 1. Một thời, Thế Tôn đang du hành giữa dân chúng Kosala cùng với đại chúng Tỷ-kheo. Trong khi đi giữa đường, Thế Tôn thấy tại một chỗ nọ, một người đánh cá, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá. Thấy vậy, Ngài bước xuống đường và ngồi xuống trên chỗ đã sửa soạn dưới một gốc cây. Sau khi ngồi, Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo: 2. - Này các Tỷ-kheo, các Thầy có thấy người đánh cá kia, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá? - Thưa có, bạch Thế Tôn. - Các Thầy nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo, các Thầy có thấy hay có nghe như sau: "Một người đánh cá, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá; do nghiệp ấy, do mạng sống ấy, được cưỡi voi, cưỡi ngựa, cưỡi xe, cưỡi cỗ xe, được thọ hưởng các tài sản, hay được sống giữa tài sản lớn hay tài sản chất đống"? - Thưa không, bạch Thế Tôn.

Kinh Tương Ưng Bộ - Dục là căn bản của Khổ

XI. Bhadra (Hiền) hay Bhagandha-Hat- Thaha (S.iv,327) 1) Một thời Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Malla tại Uruvelakappa, một thị trấn của dân chúng Malla. 2) Rồi thôn trưởng Bhadraka đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. 3) Ngồi xuống một bên, thôn trưởng Bhadraka bạch Thế Tôn: -- Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn thuyết cho con về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ! -- Này Thôn trưởng, nếu y cứ vào thời quá khứ, Ta thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ, nói rằng: "Như vậy đã xảy ra trong thời quá khứ"; ở đây, Ông sẽ phân vân, sẽ có nghi ngờ. Này Thôn trưởng, nếu y cứ vào thời vị lai, Ta thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ, nói rằng: "Như vậy sẽ xảy ra trong thời tương lai"; ở đây, Ông sẽ có phân vân, sẽ có nghi ngờ. Nhưng nay Ta ngồi chính ở đây, này Thôn trưởng, với Ông cũng ngồi ở đây, Ta sẽ thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ. Hãy lắng nghe và suy nghiệm kỹ, Ta ...

Kinh Trung Bộ - 27. Tiểu kinh Dụ dấu chân voi

27. Tiểu kinh Dụ dấu chân voi (Cùlahatthipadopama sutta) Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ) tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Ðộc). Lúc bấy giờ Bà-la-môn Janussoni, với một cỗ xe toàn trắng do ngựa cái kéo, vào buổi sáng sớm, ra khỏi thành Savatthi. Bà-la-môn Janussoni thấy Du sĩ Pilotika từ xa đi đến, sau khi thấy, liền nói với Du sĩ Pilotika: -- Tôn giả Vacchàyana đi từ đâu về sớm như vậy? -- Tôn giả, tôi từ Sa-môn Gotama đến đây. -- Tôn giả Vacchayana nghĩ thế nào? Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt không? Tôn giả có xem Sa-môn Gotama là bậc có trí không? -- Tôn giả, tôi là ai mà có thể biết Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt? Chỉ có người như Sa-môn Gotama mới có thể biết Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt.