Chuyển đến nội dung chính

TÌM HIỂU KINH PHẬT - TƯƠNG ƯNG BỘ TẬP 3 - Chương 2 - Tương Ưng Ràdha (02)

TÌM HIỂU KINH PHẬT - TƯƠNG ƯNG BỘ TẬP 3 - Chương 2 - Tương Ưng Ràdha (02)

PHẦN CHÁNH KINH

KINH TƯƠNG ƯNG TẬP 3
[23] Chương II: Tương Ưng Ràdha
I. Phẩm Thứ Nhất

II. Chúng Sanh (Tạp 6, Ðại 2,40a) (S.iii,189)

1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...
3) Ngồi xuống một bên, Tôn giả Ràdha bạch Thế Tôn:
-- "Chúng sanh, chúng sanh", bạch Thế Tôn, được nói đến như vậy. Cho đến như thế nào, bạch Thế Tôn, được gọi là chúng sanh?
4) -- Này Ràdha, dục nào (chanda), tham nào, hỷ nào, khát ái nào đối với sắc, triền phược ở đấy, triền miên ở đấy, do vậy gọi là chúng sanh (sattà).
5-7) ... thọ... tưởng... các hành...
8) Dục nào, tham nào, hỷ nào, khát ái nào đối với thức, triền phược ở đấy, triền miên ở đấy, do vậy gọi là chúng sanh.
9) Ví như, này Ràdha, các đứa con trai hay các đứa con gái chơi với cái nhà bằng đất. Cho đến khi đối với những nhà bằng đất ấy, lòng tham chưa thoát ly, lòng dục chưa thoát ly, lòng ái chưa thoát ly, lòng khát chưa thoát ly, lòng nhiệt tình chưa thoát ly, lòng khát ái chưa thoát ly, thời chúng còn tham dính vào, thích chơi, chất chứa, và đắm trước những nhà bằng đất ấy.
10) Nhưng khi nào các đứa con trai hay các đứa con gái ấy đối với những nhà bằng đất kia, lòng tham đã thoát ly, lòng dục đã thoát ly, lòng ái đã thoát ly, lòng khát đã thoát ly, lòng nhiệt tình đã thoát ly, lòng khát ái đã thoát ly, thời với tay và với chân, chúng phá tan, phá vỡ, phá sập, không chơi với những căn nhà bằng đất ấy.
11) Cũng vậy, này Ràdha, Ông hãy phá tan, phá vỡ, phá sập, không chơi với sắc, chú tâm hướng đến đoạn diệt khát ái đối với sắc.
12-14) ... thọ... tưởng... các hành...
15) ... Ông hãy phá tan, phá vỡ, phá sập và không chơi với thức, chú tâm hướng đến đoạn diệt khát ái đối với thức.
16) Ðoạn diệt khát ái, này Ràdha, là Niết-bàn.

PHẦN GIẢNG GIẢI
CỦA SƯ GIÁC NGUYÊN (TOẠI KHANH)

KINH TƯƠNG ƯNG TẬP 3
Chương 2: Tương Ưng Radha

CHÚNG SANH

Chữ “Chữ “satta” (chúng sanh) có chỗ dịch là ‘hữu tình’

‘Atta’: chính mình, cá thể, cá nhân (own, self)

‘Sa’: có, với (co-, with), tương tự kiểu ghép của chữ co-exist: cộng sinh

Satta = (sa + atta): nghĩa là cái gì ở đời này bản thân nó là một cá nhân, một cá thể, độc lập giữa cuộc đời này. Chữ này được dùng trước khi Đức Phật ra đời mang nghĩa chúng sinh (beings) trong đời. Theo chú giải, ngài Rādha là một nhân vật biện tài (patibhaniya), ngài hỏi Đức Thế Tôn từng chữ từng chữ. Tôi từng nói với quí vị là Phật pháp sâu và rộng đến mức không có thứ gì trong đời này mình không tìm thấy tối thiểu một bài kinh liên quan. Một người giỏi kinh Phật lật cuốn tự điển tiếng Việt ra, từng chữ trong cuốn tự điển đều có thể diễn dịch chữ đó qua một đề tài trong Phật pháp. 

Ví dụ, chữ tô, tồ, tố, tổ, tộ, chỉ riêng chữ ‘tô’ thôi cũng đủ để một người như tôi có thể thuyết một bài pháp, huống chi là một vị biện tài như ngài Rādha. Một cái tăm xỉa răng cũng có thể có một trăm đề tài để thuyết pháp, tăm chưa xài tôi nói khác mà tăm xài rồi tôi vẫn có chỗ để nói về Phật pháp. Không phải là tôi giỏi mà vì Phật pháp rất sâu rộng. Đó chính là lý do ngài Rādha đến hỏi Đức Thế Tôn từng chữ từng chữ. Hôm trước thì ngài hỏi về chữ ‘māra’, hôm nay thì hỏi về chữ ‘satta’: “Chúng sanh, chúng sanh, bạch Thế Tôn, được nói đến như vậy. Cho đến như thế nào, bạch Thế Tôn, được gọi là chúng sanh”.

Đây là chữ đã có trước khi Thế Tôn ra đời hoằng đạo. Nhưng ngài Rādha biết, cái gì đến với Thế Tôn rồi thì phải lớn chuyện; ngài Ānanda, và chư tỳ kheo, trên đường đi bát gặp điều gì, nghe điều gì, suy nghĩ điều gì thì đem về thưa với Đức Phật. Các vị biết khi thưa với Đức Phật một chuyện như vậy thì sẽ được nghe một bài pháp tuyệt vời. Tuyệt vời là vì Thế Tôn luôn biết rõ căn cơ sở tánh của mỗi người. Mình dù có khôn bằng trời hay ngu như vịt thì Ngài cũng biết cái gì hợp với mình nhất. Khi nghe được Ngài nói, nếu không có đắc thì tối thiểu đủ để cho mình đảo lộn càn khôn, biến thành một con người khác tốt hơn, an lạc hơn. Chư tăng tin điều đó nên chuyện gì cũng đem về thưa với Đức Phật. 

Đó là lý do tại sao khi Thế Tôn vừa tuyên bố Niết bàn thì trời rung đất chuyển; tại sao khi Thế Tôn nằm dưới hai cây sala thì thiên chúng mười muôn triệu thế giới đổ về khóc, vì đây là con người cái gì cũng biết, ai Ngài cũng thương, đức lành nào Ngài cũng có. Sau đêm nay, con người này vĩnh viễn ra đi, mình có chuyện gì không biết tìm ai. Tôi phải nói rằng, nếu được gặp Thế Tôn, được tận mắt nhìn thấy Thế Tôn, nếu tôi đủ phước, cho tôi hỏi Ngài một câu gì đó, và được nghe Ngài trả lời xong, có chết tôi cũng chịu. Bây giờ là ba giờ ba mươi mốt phút, tôi vẫn xác định như vậy. Chỉ nghe một câu từ Ngài thôi, đáng lắm!

Chữ ‘satta”, từ động từ căn ‘sat’nghĩa là: ‘dính’, ‘máng’, ‘liên hệ’, ‘lòng thòng’, ‘dây dưa’, ‘dính dấp’, ‘dính líu’. Trong chú giải có định nghĩa là ‘lagga’nghĩa là. Chữ ‘lagga’ có nghĩa rộng, cái đãy của ông thầy chùa cũng gọi là ‘lagga’, miếng kẹo gum dính vào áo cũng gọi là ‘lagga’, một miếng nước dính trên bàn cũng gọi là ‘lagga’.

Theo một bài kinh khác, “Này các tỳ kheo, như con chim có điều kiện sẽ bay về trời, con cá có điều kiện sẽ tìm về với nước, chồn cáo tìm về hang hốc, rắn rít tìm xuống khe hở. Cũng vậy, sáu căn của chúng sinh (như mắt luôn luôn tìm cái để nhìn, tai luôn luôn tìm cái để nghe, mũi luôn luôn tìm cái để ngửi…) luôn luôn ở trong tình trạng sẵn sàng làm việc, vì vậy chúng sinh luôn luôn giống như cục keo, bạ đâu dính đó”. 

Tu Tứ Niệm Xứ là hạn chế sự dính đó. Nghĩa là cái gì xảy ra thì biết chớ không đi kiếm. Người không tu thì bạ đâu dính đó, nghe cái gì bực mình thì cái phải tâm dán vào cái bực mình đó để sân hận, nghe tiếng động hay cái mùi gì thích thì dán cái tâm vào đó để tham. Sân ở đâu, tham ở đâu thì si ở đó. Chúng sinh không tu thì y hệt như cục keo – giống như một loại keo siêu dính; loại keo này dính rất nhanh và rất chắc, không thể nào gỡ ra. Sáu căn của phàm phu y hệt như vậy, luôn luôn trong tình trạng bám dính không cái này thì cái khác. Khi tu tập chánh niệm, là không tiếp tục bạ đâu dính đó nữa. ‘Satta’là chúng sinh, ám chỉ cho phàm phu.

Ở đây, khi ngài Rādha hỏi Thế Tôn ‘chúng sinh’ là gì. Đức Thế Tôn đã dùng hình ảnh rất đẹp:

“Ví như, này Ràdha, các đứa con trai hay các đứa con gái chơi với cái nhà bằng đất. Cho đến khi đối với những nhà bằng đất ấy, lòng tham chưa thoát ly, lòng dục chưa thoát ly, lòng ái chưa thoát ly, lòng khát chưa thoát ly, lòng nhiệt tình chưa thoát ly, lòng khát ái chưa thoát ly, thời chúng còn tham dính vào, thích chơi, chất chứa, và đắm trước những nhà bằng đất ấy”.

Theo chú giải, pamsu-agāra = paṃsughara: nhà nắn bằng đất sét của trẻ con. Trẻ con nông thôn thường chơi nhà chòi, đây là căn nhà nhỏ nhỏ làm bằng những nhánh lá cột lại, cũng có hai mái trước sau; rồi lấy đất sét nắn thành những trâu bò, lò bếp; hái lá cây làm tiền, chơi trò mua bán v.v… Đức Phật nói rằng, ngày nào những đứa bé còn mê những trò chơi này thì chưa trưởng thành được, và khi đã trưởng thành rồi thì không bao giờ thích chơi những trò trẻ con đơn điệu buồn chán như thế này. Cũng vậy, ngày nào còn là phàm phu thì mình còn thích chuyện đầu cơ tích trữ nhà đất, mái ấm gia đình, tình yêu sự nghiệp danh tiếng… Sẽ có một ngày mình thấy những điều đó chỉ là trò hề, những kẻ hôm trước tung hô mình, hôm sau chà đạp mình, lúc đó mới thấy chuyện khen chê chẳng là cái gì hết. 

Ai đọc sử VN cũng thấy, bao nhiêu chế độ đi qua, kẻ hôm qua được suy tôn, hôm nay phải chịu án tử. Chết rồi cũng không dám đề tên thiệt nơi mộ dù ngày nào là đệ nhất công dân. Vì vậy Đức Phật dạy hãy quán chiếu năm uẩn để thấy rằng sẽ có một ngày ta khi ly tham ly dục được đối với năm uẩn bằng cách thấy nó là khổ, là tạm bợ, là nguồn gốc của hiểm nạn thì sẽ không còn tiếp tục thích nó; như một người trưởng thành không còn thích thú cái vô vị tẻ nhạt của trò chơi nhà chòi bằng đất của thuở nào tóc còn để chỏm nữa. 

Trong cái nhìn của bậc thánh, chúng ta có bao nhiêu tuổi đi nữa mà không chánh niệm, không có trí tuệ thì chúng ta vẫn mãi hoài là đứa trẻ, thậm chí là người điên. Trong mắt các bậc thánh tiếng cười của mình chỉ là tiếng khóc. Trong mắt của bậc thánh những vũ điệu của mình chỉ là những động tác của người điên. Đó là kinh nói, không phải tôi nói. Dù trăm tuổi đi nữa mà không hiểu pháp sanh diệt của năm uẩn thì cũng như là con bò chỉ phát triển cái thân của nó, còn con đường sinh tử thì vẫn dài dằng dặc. (Theo Kinh Pháp Cú)

Đức Thế Tôn định nghĩa chúng sinh là đụng đâu bám đó, bám để bực, để tham, thích cái này, ghét cái kia như đứa trẻ, vì vậy Ngài gọi là ‘satta’. Có tu tập thì sẽ có một ngày dầu cũng còn mang tiếng là ‘satta’ nhưng ta không còn tiếp tục đụng đâu dính đó. Mai này, quí vị chỉ cần nhớ: hình như mình đang dính tùm lum, và đời sống chánh niệm là không biến mình thành cục keo nữa, sẽ có một ngày mình không còn tiếp tục đụng đâu dính đó.
______________________________

Bài viết được trích từ Bài Giảng Kinh Tương Ưng
của Tỳ Khưu Giác Nguyên (Toại Khanh) do Nhị Tường ghi chép lại.
Được lưu trữ dưới dạng âm thanh tại đây: www.vietheravada.net
Bản kinh Pāḷi và Sớ giải tham khảo từ địa chỉ www.tipitaka.org.

Xem thêm: Kinh Tương Ưng Bộ


Nhận xét

Đăng nhận xét

BÀI ĐĂNG PHỔ BIẾN

Kinh Tăng Chi Bộ - 10 kiết sử

(III) (13) Các Kiết Sử 1. - Này các Tỷ-kheo, có mười kiết sử này. Thế nào là mười? 2. Năm hạ phần kiết sử, năm thượng phần kiết sử. Thế nào là năm hạ phần kiết sử? 3. Thân kiến, nghi, giới cấm thủ, dục tham, sân. Ðây là năm hạ phần kiết sử.

Thiền Vipassana - Thiền Tứ Niệm Xứ (Thích Trí Siêu)

Thiền Tứ niệm xứ (Thích Trí Siêu -  1998) _______________________ Mục Lục [1] Vài lời cùng bạn đọc [2] Mở đầu  [3] Tứ Niệm Xứ và Bát Nhã Tâm Kinh  [4] Tứ Niệm Xứ và Thiền Tông  [5] Thiền và Tịnh Ðộ  [6] Tứ Niệm Xứ và Bồ Tát Ðạo  [7] Phương pháp hành thiền Tứ Niệm Xứ  [8] Kết luận [9] Phụ Lục - Kinh Quán Niệm Sách Thiền Tứ Niệm Xứ đã được tái bản nhiều lần. Riêng trong kỳ tái bản này sách được bổ túc thêm phần Phụ Lục với Kinh Niệm Xứ, dịch từ "Discourse on the Applications of Mindfulness" (Satipatthanasutta) trong "Middle Length Sayings" (Trung Bộ Kinh) của Pali Text Society, I.B. Horner, 1967.

Kinh Tương Ưng Bộ - Tham luyến

I. Tham Luyến (Tạp 2, Ðại 2,9a) (S.iii,53) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, tham luyến là không giải thoát. Do tham luyến sắc, này các Tỷ-kheo, thức có chân đứng được an trú. Với sắc là sở duyên, với sắc là trú xứ, (thức) hướng tìm hỷ, đi đến tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh. 4) Hay do tham luyến thọ ... tham luyến tưởng ... tham luyến hành, này các Tỷ-kheo, thức có chân đứng được an trú. Với hành là sở duyên, với hành là trú xứ, (thức) hướng tìm hỷ, đi đến tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh. 5) Này các Tỷ-kheo, ai nói như sau: "Ngoài sắc, ngoài thọ, ngoài tưởng, ngoài các hành, tôi sẽ chỉ rõ sự đến hay đi, sự diệt hay sanh, sự tăng trưởng, sự tăng thịnh hay sự lớn mạnh của thức", sự việc như vậy không xảy ra. 6-10) Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với sắc giới; do tham được đoạn tận, sở duyên được cắt đứt, chỗ y chỉ của thức không có hiện hữu. Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với thọ giới... đối với t...

TÌM HIỂU KINH PHẬT - TƯƠNG ƯNG BỘ TẬP 3 - Chương 9 - Tương Ưng Kim Xí Ðiểu

PHẦN CHÁNH KINH KINH TƯƠNG ƯNG TẬP 3 [30] Chương IX: Tương Ưng Kim Xí Ðiểu I. Chủng Loại (S.iii,246) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại Kim xí điểu về sanh chủng. Thế nào là bốn? Loại Kim xí điểu từ trứng sanh, loại Kim xí điểu từ thai sanh, loại Kim xí điểu từ ẩm ướt sanh, loại Kim xí điểu hóa sanh. Này các Tỷ-kheo, đây là bốn loại Kim xí điểu. II. Mang Ði (Tăng 19, Ðại 2, 646a) (S.iii,247) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại Kim xí điểu về sanh chủng. Thế nào là bốn? Loại Kim xí điểu từ trứng sanh... loại Kim xí điểu hóa sanh. Này các Tỷ-kheo, đây là bốn loại Kim xí điểu. 4) Tại đây, này các Tỷ-kheo, các loại Kim xí điểu từ trứng sanh chỉ mang đi các loại Nàga từ trứng sanh, không mang đi các loại Nàga từ thai sanh, từ ẩm ướt sanh và hóa sanh. 5) Tại đây, này các Tỷ-kheo, các loại Kim xí điểu từ thai sanh, mang đi các loại Nàga từ trứng sanh và các loại Nàga từ thai sanh, không mang đi các loại Nàga từ ẩm ướt sanh và các loại...

Kinh Tương Ưng Bộ - Sức mạnh của Đàn Bà

30. VI. Họ Ðuổi Ði (S.iv,247) 1) ... 2) -- Này các Tỷ-kheo, người đàn bà có năm sức mạnh này. Thế nào là năm? Sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, sức mạnh con trai, sức mạnh giới hạnh. 3) Này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc và sức mạnh tài sản, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, nếu người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, sức mạnh con trai, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. 4) Này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh giới hạnh,...

Kinh Tương Ưng Bộ - Vô ngã tưởng

VII. Năm Vị (Vô ngã tưởng) (Ðại 2,7c) (Luật tạng, Ðại phẩm q.1, từ trang 3) (S.iii,66) 1) Một thời Thế Tôn ở Bàrànasi (Ba-la-nại), tại Isìpatana (Chư Tiên đọa xứ), vườn Lộc Uyển. 2) Ở đây Thế Tôn nói với đoàn năm vị Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo". -- "Thưa vâng bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau: 3) -- Sắc, này các Tỷ-kheo, là vô ngã. Này các Tỷ-kheo, nếu sắc là ngã, thời sắc không thể đi đến bệnh hoạn và có thể được các sắc như sau: "Mong rằng sắc của tôi là như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!" 4) Và này các Tỷ-kheo, vì sắc là vô ngã. Do vậy sắc đi đến bệnh hoạn, và không thể có được các sắc: "Mong rằng sắc của tôi như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!"

Kinh Tương Ưng Bộ - Ví dụ mũi tên

6. VI. Với Mũi Tên (S.iv,207) 1-2) ...  3) -- Này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu, cảm thọ cảm giác lạc thọ, cảm thọ cảm giác khổ thọ, cảm thọ cảm giác bất khổ bất lạc thọ. 4) Này các Tỷ-kheo, bậc Ða văn Thánh đệ tử cũng cảm thọ cảm giác lạc thọ, cảm thọ cảm giác khổ thọ, cảm thọ cảm giác bất khổ bất lạc thọ. 5) Ở đây, này các Tỷ-kheo, thế nào là đặc thù, thế nào là thù thắng, thế nào là sai biệt giữa bậc Ða văn Thánh đệ tử và kẻ vô văn phàm phu?

Kinh Tăng Chi Bộ - Ác ý

(VIII) (18) Con Cá 1. Một thời, Thế Tôn đang du hành giữa dân chúng Kosala cùng với đại chúng Tỷ-kheo. Trong khi đi giữa đường, Thế Tôn thấy tại một chỗ nọ, một người đánh cá, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá. Thấy vậy, Ngài bước xuống đường và ngồi xuống trên chỗ đã sửa soạn dưới một gốc cây. Sau khi ngồi, Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo: 2. - Này các Tỷ-kheo, các Thầy có thấy người đánh cá kia, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá? - Thưa có, bạch Thế Tôn. - Các Thầy nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo, các Thầy có thấy hay có nghe như sau: "Một người đánh cá, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá; do nghiệp ấy, do mạng sống ấy, được cưỡi voi, cưỡi ngựa, cưỡi xe, cưỡi cỗ xe, được thọ hưởng các tài sản, hay được sống giữa tài sản lớn hay tài sản chất đống"? - Thưa không, bạch Thế Tôn.

Kinh Tương Ưng Bộ - Dục là căn bản của Khổ

XI. Bhadra (Hiền) hay Bhagandha-Hat- Thaha (S.iv,327) 1) Một thời Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Malla tại Uruvelakappa, một thị trấn của dân chúng Malla. 2) Rồi thôn trưởng Bhadraka đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. 3) Ngồi xuống một bên, thôn trưởng Bhadraka bạch Thế Tôn: -- Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn thuyết cho con về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ! -- Này Thôn trưởng, nếu y cứ vào thời quá khứ, Ta thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ, nói rằng: "Như vậy đã xảy ra trong thời quá khứ"; ở đây, Ông sẽ phân vân, sẽ có nghi ngờ. Này Thôn trưởng, nếu y cứ vào thời vị lai, Ta thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ, nói rằng: "Như vậy sẽ xảy ra trong thời tương lai"; ở đây, Ông sẽ có phân vân, sẽ có nghi ngờ. Nhưng nay Ta ngồi chính ở đây, này Thôn trưởng, với Ông cũng ngồi ở đây, Ta sẽ thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ. Hãy lắng nghe và suy nghiệm kỹ, Ta ...

Kinh Trung Bộ - 27. Tiểu kinh Dụ dấu chân voi

27. Tiểu kinh Dụ dấu chân voi (Cùlahatthipadopama sutta) Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ) tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Ðộc). Lúc bấy giờ Bà-la-môn Janussoni, với một cỗ xe toàn trắng do ngựa cái kéo, vào buổi sáng sớm, ra khỏi thành Savatthi. Bà-la-môn Janussoni thấy Du sĩ Pilotika từ xa đi đến, sau khi thấy, liền nói với Du sĩ Pilotika: -- Tôn giả Vacchàyana đi từ đâu về sớm như vậy? -- Tôn giả, tôi từ Sa-môn Gotama đến đây. -- Tôn giả Vacchayana nghĩ thế nào? Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt không? Tôn giả có xem Sa-môn Gotama là bậc có trí không? -- Tôn giả, tôi là ai mà có thể biết Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt? Chỉ có người như Sa-môn Gotama mới có thể biết Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt.