PHẦN CHÁNH KINH
KINH TƯƠNG ƯNG TẬP 3
[22] Chương I: Tương Ưng Uẩn (g)
C. Năm Mươi Kinh Sau
III. Phẩm Vô Minh
I. Tập Pháp (Tạp 10, Ðại 2,64b) (S.iii,171)
1) Nhân duyên ở Sàvatthi.
2) Rồi một Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn; sau khi đến...
3) Ngồi xuống một bên, Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
-- "Vô minh, vô minh", bạch Thế Tôn, được nói đến như vậy. Bạch Thế Tôn, thế nào là vô minh? Và cho đến như thế nào được gọi là vô minh?
4) -- Ở đây, này Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu, không như thật biết rõ: "Sắc chịu sự tập khởi" là sắc chịu sự tập khởi, không như thật biết rõ: "Sắc chịu sự đoạn diệt" là sắc chịu sự đoạn diệt, không như thật biết rõ: "Sắc chịu sự tập khởi và đoạn diệt" là sắc chịu sự tập khởi và đoạn diệt.
5-7) ... "Thọ... Tưởng... Các hành..".
8) ... không như thật biết rõ: "Thức chịu sự tập khởi" là thức chịu sự tập khởi, không như thật biết rõ: "Thức chịu sự đoạn diệt" là thức chịu sự đoạn diệt, không như thật biết rõ: "Thức chịu sự tập khởi và đoạn diệt" là thức chịu sự tập khởi và đoạn diệt.
10) Khi được nói vậy, Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
-- "Minh, minh", bạch Thế Tôn, được nói đến như vậy. Thế nào là minh, bạch Thế Tôn? Cho đến như thế nào được gọi là minh?
11) -- Ở đây, bậc Ða văn Thánh đệ tử như thật biết rõ: "Sắc chịu sự tập khởi" là sắc chịu sự tập khởi, như thật biết rõ: "Sắc chịu sự đoạn diệt" là sắc chịu sự đoạn diệt, như thật biết rõ: "Sắc chịu sự tập khởi và đoạn diệt" là sắc chịu sự tập khởi và đoạn diệt.
12-14) ... "Thọ... Tưởng... Các hành..".
15) ... Như thật biết rõ: "Thức chịu sự tập khởi" là thức chịu sự tập khởi, như thật biết rõ: "Thức chịu sự đoạn diệt" là thức chịu sự đoạn diệt, như thật biết rõ: "Thức chịu sự tập khởi và đoạn diệt" là thức chịu sự tập khởi và đoạn diệt.
16) Như vậy, này Tỷ-kheo, được gọi là minh, cho đến như vậy được gọi là minh.
II. Tập Pháp (S.iii,172)
1) Một thời, Tôn giả Sàriputta và Tôn giả Mahà Kotthika trú ở Bàrànasi, tại Isipatana, vườn Lộc Uyển.
2) Rồi Tôn giả Mahà Kotthika, vào buổi chiều, từ Thiền tịnh đứng dậy...
3) Ngồi xuống một bên, Tôn giả Mahà Kotthika thưa với Tôn giả Sàriputta:
-- "Vô minh, vô minh", thưa Hiền giả Sàriputta, được nói đến như vậy. Thế nào là vô minh, thưa Hiền giả Sàruputta? Cho đến như thế nào được gọi là vô minh?
(... như kinh trên).
III. Tập Pháp (S.iii,173)
1-2) Một thời, Tôn giả Sàriputta và Tôn giả Mahà Kotthika trú ở Bàrànasi (Ba-la-nại), Isipatana (Chư Tiên đọa xứ), tại vườn Lộc Uyển.
3) Ngồi xuống một bên, Tôn giả Mahà Kotthika thưa với Tôn giả Sàriputta:
-- "Minh, minh", thưa Tôn giả Sàriputta, được nói đến như vậy. Thế nào là minh, thưa Hiền giả Sàriputta? Cho đến như thế nào được gọi là minh?
(... như kinh trên).
PHẦN GIẢNG GIẢI
CỦA SƯ GIÁC NGUYÊN (TOẠI KHANH)
KINH TƯƠNG ƯNG TẬP 3
Chương 1: Tương Ưng Uẩn
Phẩm Vô Minh
TẬP PHÁP (Samudayadhammasutta)
Phẩm Vô Minh cũng nội dung như vậy. Vị này hỏi Đức Phật vô minh là gì. Ngài trả lời, Phẩm Vô Minh cũng nội dung như vậy. Vị này hỏi Đức Phật vô minh là gì. Ngài trả lời, vô minh là không thấy được năm uẩn.
“3) Ngồi xuống một bên, Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
— “Vô minh, vô minh”, bạch Thế Tôn, được nói đến như vậy. Bạch Thế Tôn, thế nào là vô minh? Và cho đến như thế nào được gọi là vô minh?
4) — Ở đây, này Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu, không như thật biết rõ: “Sắc chịu sự tập khởi” là sắc chịu sự tập khởi, không như thật biết rõ: “Sắc chịu sự đoạn diệt” là sắc chịu sự đoạn diệt, không như thật biết rõ: “Sắc chịu sự tập khởi và đoạn diệt” là sắc chịu sự tập khởi và đoạn diệt.”
*Tập khởi của năm uẩn
Tập khởi (samudaya): nguyên do có mặt.
Tập khởi của năm uẩn có hai cách hiểu: xa và gần, trực tiếp và gián tiếp.
Nguyên do xa (gián tiếp) của năm uẩn là (gián tiếp) của năm uẩn là tham ái trong năm uẩn đời trước.
Tập khởi gián tiếp là do tham ái đời trước, đời trước thích trong năm dục nên đời sau sanh ra ở cõi Dục. Còn khi sanh ra ở cõi Dục giới này có được hưởng thứ này hay thứ kia hay không thì tùy vào có phước hay không.
Nguyên do gần(trực tiếp) của năm uẩn thì như sau:
– Thức ăn là Tập khởi trực tiếp của Sắc uẩn.
– Sáu xúc (approachingnot touching – sự tiếp cận của 6 căn và 6 cảnh) là Tập khởi trực tiếp của Thọ uẩn, Tưởng uẩn, Hành uẩn.
– Danh sắc (danh: 6 thức, sắc: 6 căn) là Tập khởi trực tiếp của Thức uẩn.
Ở đây, Đức Thế Tôn định nghĩa vô minh là sự mù mịt không biết rõ năm uẩn qua hai khía cạnh Tập khởi và Đoạn diệt. Chính vì không thấy được tánh Tập khởi và Đoạn diệt của năm uẩn nên mình mới thấy nó hay ho và đam mê nắm níu. Nếu như mình biết cái lấp lánh trên đầu ngọn cỏ chỉ là giọt sương thì mình không có gì đam mê, nhưng nếu tưởng đó là kim cương thì mình sẽ bị cuốn hút liền.
Hôm thứ bảy, anh Phật tử ở đây chở tôi đi chợ trời (Fleamarket, Flohmarkt). Chỉ là “window shopping”, người Đức kêu là “liếm cửa sổ”, tức là đứng ngoài mà nhìn chứ không vô trong, tôi thấy họ bày bán đầy đồng hồ, kim cương. Có một khay nhung rất đẹp đựng sáu bảy viên kim cương có ghi giá từng viên. Mắc nhất là 18 ngàn. Mười ba, mười hai, tám ngàn cũng có. Cũng cái lấp lánh đó mà biết là sương thì lòng mình khác, mà là kim cương thì lòng mình sẽ khác. Phải nói là đẹp thật, nhưng tôi cũng có biết một loại crytal swarovski, một thứ thủy tinh của Áo (Austria). Ai mê kim cương quá mà không có tiền thì xài đỡ swarovski, đẹp y hệt như kim cương. Nếu trộn chung thì chỉ có trời biết.
Chính vì vậy, trên đời này, chân lý chỉ có một, mà tương tự chân lý thì có rất nhiều. Những gì mình cho là ngọt ngào, vừa với mình, thật sự không có nhiều, mình chỉ sống toàn bằng ảo giác. Tại sao mình thương ai đó, và gọi là tri kỷ tri âm? Ta thương ai đó là vì chưa hiểu hết về nhau, ở đâu đến và kết thúc ra sao. Đôi tri kỷ ấy có thể hiểu nhau nhiều hơn những người khác; nhưng khi hiểu thêm nữa về nhau thì sẽ biết rằng trên trời đất vũ trụ này chả có một đối tượng nào đáng để có thể thương nhớ. Có thể nói huỵch toẹt phũ phàng như vậy.
Chính vì hiểu rõ như vậy nên Đức Phật dạy rằng, một người cầu đạo giải thoát thì phải biết rõ bản chất của danh sắc, ở đâu đến và kết thúc ra sao – gọi theo thuật ngữ là ‘tập khởi’ và ‘đoạn diệt’. Biết rõ rồi thì nản lắm. Nhờ mình không biết hoặc chỉ biết ba mớ nên chưa thấy nản. Trong room này dù cho tôi giảng quí vị nghe, quí vị nghe tôi giảng, cứ tưởng là hai phía đã hiểu, chứ thực ra, nếu không thường trực quán chiếu, nếu không có thánh trí, thánh tâm thì cái thấy của chúng ta rất hạn chế.
Hệt như đứa bé nghe ba má nói ăn kẹo hư răng mà nó không hiểu hư răng sún răng là gì, và nó chưa đủ lớn để sợ. Khi nào nhức răng rồi thì nó mới biết. Cái hiểu biết của nó về răng sâu răng sún mơ hồ lắm, nhưng viên kẹo sô-cô-la thì quá ngon. Mình tưởng mình là người biết đạo, là tu sĩ, cư sĩ lâu năm nhưng mình vẫn là đứa bé mê kẹo, chuyện đau răng thì rất xa vời, mai này khi nào nhức răng thì mới biết, mình vẫn tiếp tục ăn sô-cô-la.
____________________________
Bài viết được trích từ Bài Giảng Kinh Tương Ưng
của Tỳ Khưu Giác Nguyên (Toại Khanh) do Nhị Tường ghi chép lại.
Được lưu trữ dưới dạng âm thanh tại đây: www.vietheravada.net
Bản kinh Pāḷi và Sớ giải tham khảo từ địa chỉ www.tipitaka.org.
Xem thêm: Kinh Tương Ưng Bộ
Nhận xét
Đăng nhận xét