Chuyển đến nội dung chính

GIÁO TRÌNH PHẬT HỌC - Phần VIII - QUY Y NƯƠNG TỰA

Phần VIII
QUY Y NƯƠNG TỰA

Phần VIII - QUY Y NƯƠNG TỰA - GIÁO TRÌNH PHẬT HỌC - Đạo Phật Nguyên Thủy


NỘI DUNG

1. Ý Nghĩa Nơi Nương Tựa (Sarana)
2. Nguồn Gốc Của Việc Nương Tựa
3. Sự Quy Y Nương Tựa
4. Tại Sao Chúng Ta Cần Quy Y Nương Tựa
5. Ba Nơi Nương Tựa – Tam Bảo
6. Những Yếu Tố Hỗ Trợ Việc Quy Y Nương Tựa
7. Sự Bất Tịnh và Hủy Bỏ Trong Quy Y
8. Những Lợi Ích Của Việc Quy Y Tam Bảo
9. Sách và Tài Liệu Tham Khảo



I
Ý Nghĩa Nơi Nương Tựa
(Sarana)



Sarana trong tiếng Pali có nghĩa là: “Nơi nương tựa”, và được định nghĩa như là “một nơi che chở”, “một sự hay nơi bảo vệ” con người khỏi hiểm họa, tai biến; “một người, một thứ gì hay quá trình” mang lại sự bảo vệ, sự che chở, sự an ninh.

Hòa Thượng Thiền Sư quá cố Ledi Sayadaw trong quyển “Uttama Purisa Dipani” của ngài, đã định nghĩa từ “sarana” như sau:

“Nếu một người tỏ lòng tôn kính hay tôn thờ một đối tượng hay một người nào đó, và nếu hành động tôn kính hay tôn thờ đó trở thành một nghiệp thiện (kusala kamma), mà có thể cứu mình khỏi tái sinh vào cảnh giới đau khổ, thì đối tượng hay người đó trở thành một “sarana”, và như vậy xứng đáng được tôn kính hay tôn thờ”.

“Ngược lại, nếu một người tỏ lòng tôn kính hay tôn thờ một đối tượng hay một người nào đó với tư tưởng là đối tượng đó hay người đó sẽ cứu mình khỏi tái sinh vào cảnh giới đau khổ, nhưng thật ra hành động tôn kính hay tôn thờ đó không trở thành một nghiệp thiện (kusala kamma), thì đối tượng hay người đó không phải là một “sarana”, và không xứng đáng được tôn kính hay tôn thờ”.

Sau đó, vị Hòa Thượng Thiền Sư này lại tiếp tục dùng một sự so sánh như sau:

“Những đức hạnh giữ Giới (sila), Định tâm (samadhi), và Trí Tuệ (panna) không bị thối chuyển có thể được so sánh với sự phì nhiêu của đất trồng. Những đối tượng làm nơi nương tựa như là: Phật, Pháp và Tăng có thể được so sánh như chính đất trồng có những phẩm chất phì nhiêu đó. Hành động cố ý (cetana) khởi sinh trong tâm (tâm Hành) của một người thông qua việc nương tựa Phật, Pháp, Tăng thì giống như những hạt giống được gieo trồng trên đất phì nhiêu đó”.

“Những người hay đối tượng không có được những đức hạnh Giới (sila), Định (samadhi), Tuệ (panna) bất thối chuyển cũng giống như miếng đất khô cằn không một chút phì nhiêu. Nếu gặp những người hay đối tượng đó và tỏ lòng tôn kính hay tôn thờ thì chỉ giống như gieo trồng những hạt giống trên miếng đất khô cằn đó. Những người hay đối tượng đó không mang lại nghiệp thiện (kusala kamma), và vì vậy việc đó là vô ích”.



II
Nguồn Gốc Của Việc Quy Y Nương Tựa



Theo Kinh Điển Pali, ngay sau khi Giác Ngộ thành đạo, Đức Phật đã trải qua 7 tuần, trong đó có ngồi dưới gốc Cây Bồ-Đề, Cây Banyan tree, Cây Mucalinda (Mãng Xà Vương), và cuối cùng là dưới Cây Rajayatana, mỗi nơi một tuần. Khi Đức Phật ngồi dưới cây Rajayatana , lúc đó có hai anh người lái buôn tên là TapussaBhallika đến từ Ukkala (Orissa, tức Miến Điện ngày nay) dâng lên cúng dường Đức Phật bánh gạo nếp và mật ong. Sau khi Đức Phật thọ trai bữa ăn xong, hai người quỳ lạy dưới chân Người và xin được quy y nương tựa vào Đức Phật và Giáo Pháp của Người, lấy Phật và Pháp làm nơi nương tựa cho đến hơi thở cuối cùng. Họ trở thành những Phật tử cư sĩ đầu tiên, quy y vào Phật và Pháp (Nhị Bảo), bởi vì lúc đó chưa có Tăng Đoàn.

Sau đó Đức Phật đến Vườn Nai ở Sarnath ngày nay và ở đó, Người đã giảng giải “Bài Thuyết Pháp Đầu Tiên” cho năm người bạn tu khổ hạnh, mà sau này họ cũng trở thành những bậc giác ngộ A-la-hán. Họ là những Phật tử xuất gia (Tỳ kheo) đầu tiên.

Đức Phật cũng gặp và thuyết giảng giáo pháp cho công tử Yasa và 54 người bạn của Yasa, tất cả đều thọ giới vào Tăng Đoàn và sau này đều trở thành những bậc giác ngộ A-la-hán.

Cha, mẹ và vợ của Yasa cũng chứng ngộ tầng thánh Nhập Lưu hay Tu-đà-hoàn (Sotapanna) và họ đã trở thành những Phật tử tại gia (cư sĩ) đầu tiên quy y nương tựa vào Phật, Pháp, Tăng (Tam Bảo), bởi vì lúc đó Tăng Đoàn (Sangha) đã ra đời.



III
Hành Động Quy Y Nương Tựa



Hành động chọn hay quy y vào nơi nương tựa là con đường dẫn đến hay bước vào Phật Pháp (Buddha Sasana).

Sau khi tụng câu Đảnh Lễ ba lần:

“Namo Tassa Bhagavato Arahato Samma-Sambuddhassa”

“Cúi đầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, Bậc A-la-hán, Bậc Toàn Giác”.

Thì việc Quy y nương tựa được thực hiện bằng cách tụng đọc tiếp những câu bên dưới đây 3 lần:

Buddham Saranam Gacchami
Dhammam Saranam Gacchami
Sangham Saranam Gacchami

Con xin Nương tựa vào Phật
Con xin Nương tựa vào Pháp
Con xin Nương tựa vào Tăng

Dutiyampi, Buddham Saranam Gacchami.
Dutiyampi, Dhammam Saranam Gacchami.
Dutiyampi, Sangham Saranam Gacchami.

Lần thứ hai, Con xin Nương tựa vào Phật
Con xin Nương tựa vào Pháp
Con xin Nương tựa vào Tăng

Tatiyampi, Buddham Saranam Gacchami.
Tatiyampi, Dhammam Saranam Gacchami.
Tatiyampi, Sangham Saranam Gacchami.

Lần thứ ba, Con xin Nương tựa vào Phật
Con xin Nương tựa vào Pháp
Con xin Nương tựa vào Tăng

Theo quyển "Luận Giảng Tiểu Bộ Kinh" (Khuddakapatha), Đức Phật đã giảng dạy nghi thức đọc tụng "Quy Y" này ở Vườn Nai, Isipatana nhằm mục đích chấp nhận những đệ tử mới vào Tăng Đoàn, khi Người bắt đầu phái cử 60 vị A-la-hán vừa mới giác ngộ đi về nhiều hướng khác nhau để thuyết giảng và nhận thêm những đệ tử mới quy y vào Tam Bảo. Những người được gia nhập vào Tăng Đoàn (Tỳ kheo) cũng đọc tụng 3 lần những câu nghi thức này trước khi được trở thành Tỳ kheo.



IV
Tại Sao Chúng Ta Cần Nơi Nương Tựa?



Ngoại trừ những Thánh đệ tử của Đức Phật, những người đã giác ngộ Tứ Diệu Đế còn tất cả chúng sinh đều đang đắm chìm trong Vô Minh và thông thường không hề để ý hay ý thức được mình đang sống trong hiểm nguy của kiếp sống ngắn ngủi này. Chúng sinh nhận lầm vô thường, vô ngãkhổ là thường hằng, bản ngã và khoái lạc. Đức Phật xuất hiện trên thế gian này để khai giảng Tứ Diệu Đế, đó là những chân lý cao diệu mà nếu ai hiểu biết một cách đầy đủ và đúng đắn, giác ngộ được hết những chân lý đó thì sẽ dẫn đến con đường giải thoát khỏi tất cả đau khổ.

(I) Những Hiểm Họa Trong Đời Sống Hiện Tại

Theo như Tứ Diệu Đế, từ sinh ra (hay tái sinh) sẽ dẫn đến già, bệnh, chết, những buồn sầu, phiền não, đau đớn, sầu muộn và tuyệt vọng. Bản thân chúng ta với kiến thức bình thường của con người cũng dễ dàng thấy được những điều này, bởi vì những điều này, như là lẽ thật, nếu chưa xảy ra đối với chúng ta hết, thì cũng đã xảy ra với tất cả những người thân tổ tiên, ông, bà, cha, mẹ của chúng ta, không thể tránh được. Ngay lúc đang sống, thân chúng ta phải tùy thuộc và có thể bị bệnh tật, bị thương hay thậm chí bị tai nạn bất cứ lúc nào. Những thảm họa hay tai ương thiên nhiên như hỏa hoạn, lũ lụt, hạn hán và động đất có thể xảy ra bất cứ lúc nào, gây tan thương, đau khổ và chết chóc.

* Nếu bạn nghĩ rằng xã hội hiện đại, với khoa học tiên tiến và những biện pháp phòng ngừa và an sinh đã giúp con người khỏi thiên tai, thì bạn đã sai. Dù cho một đất nước văn minh, tiên tiến đến mức nào, thì cũng không thể tránh được thiên tai. Ví dụ như cơn bão Katrina kéo theo cường lũ ở Mỹ vào năm 2005 đã xóa sạch nhà cửa, tài sản và vật chất một vùng lớn hơn đất nước Việt Nam; Sóng Thần Tsunami ở Thái Lan 2007 cướp đi sinh mạng và nhà cửa bao nhiều người và những sóng thần khác đã luôn luôn rình rập những nước Indonesia, Nhật Bản, Việt Nam…, và thảm họa lũ lụt lớn nhất đã xảy ra trong nhiều tháng năm 2011 ngay thủ đô hiện đại Bangkok, ở Thái Lan. Còn bao nhiêu thiên tai lớn, nhỏ khác xảy ra khắp nơi trên thế giới trong một năm, gây ra biết bao nhiêu đau thương, mất mát và chết chóc mà con người và tất cả chúng sinh phải chịu (ND).

Khắp nơi trong thế giới hiện đại này, con người và chúng sinh cũng phải chịu những tai nạn, thảm họa do chính con người gây ra, như tai nạn, tội ác, chiến tranh, đàn áp, bệnh dịch, suy sụp kinh tế và nhiều loại khủng hoảng về chính trị, kinh tế và nhân văn đang được nhắc đến hàng ngày.

Một sự thật là, ngay cả khi số ít hay số nhiều chúng ta và chúng sinh có thoát được hết những hiểm họa nói trên, vẫn còn một thứ chúng ta không thể nào trốn thoát được, đó là cái Chết. Và ngay cả khi chấp nhận lẽ thật phũ phàng này, chúng ta cũng chẳng biết được cái chết đối với chúng ta sẽ xảy ra lúc nào và ở đâu.

(II) Những Hiểm Họa Trong Kiếp Sống Tương Lai

Những mối hiểm họa và nguy hại bao vây chúng sinh cũng không kết thúc sau khi chúng ta chết. Theo học thuyết của Đức Phật, con người khi chết đi còn mang theo dục vọng sẽ còn dẫn dắt và tái sinh vào những cảnh giới hay kiếp sống mới. Sự tái sinh, như đã nói chi tiết trong Chương VI về Tái Sinh, sẽ rơi vào những cảnh giới phúc lành (Sugati) như cõi con người, cõi của chư thiên thần, trời; hay rơi vào những cõi xấu, đày đọa (Duggati) như cõi địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh hay quỷ thần.

Hiểm họa của kiếp sống tương lai chính là bị tái sinh vào những cảnh giới xấu, đày đọa, đau khổ, không những chỉ vì ở đó toàn xấu, khổ, đau đớn và đày đọa nhục hình, mà là sự thoát khỏi cảnh giới đó là cực kỳ khó khăn. Sự tái sinh có may phúc được hay không là tùy thuộc vào những hành động công đức của chúng sinh đó trong kiếp sống hiện tại. Nhưng những chúng sinh bị tái sinh vào những cõi xấu như địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ… thì không có được cơ hội để làm chuyện công đức để tạo phước, vì thế dù có hết chịu đọa đày trong cõi xấu đó, thì chúng sinh đó cũng khó có cơ hội tái sinh về cõi tốt, cứ như vậy, vòng tái sinh vào cõi xấu cứ kéo dài vô cùng. Vì thế cho nên mới nói rằng, nếu đã tái sinh vào cõi xấu, thì mối nguy hiểm to lớn nhất là cơ hội và khả năng thoát khỏi những cõi xấu đó là cực kỳ khó khăn.

Đức Phật đã giảng giải rõ điều này bằng một ví dụ kinh điển sau:

“Giả sử có một khúc gỗ được đục một cái lổ thả trôi giữa đại dương, và một con Rùa mù sống dưới biển nổi lên mặt nước sau mỗi một trăm năm. Cơ hội để con rùa mù ngoi đầu lên trúng vào lổ của khúc gỗ thì vẫn lớn hơn cơ hội để một chúng sinh trong cõi xấu có thể được tái sinh trở lại làm người”.

Vì vậy, việc tái sinh vào cõi xấu, đọa đày là một hiểm nguy kinh khủng nhất của những kiếp sống tương lai sau khi chết, cho nên chúng ta cần sự bảo vệ, cần nơi để nương tựa. Chúng ta không thể làm gì được để xóa bỏ những cảnh giới xấu, vì vậy cách duy nhất là chúng ta hãy tìm mọi cách để tránh né chúng!

Theo Quy Luật của Nghiệp, những hành động hay nghiệp tốt, thiện, lành sẽ tạo ra những kết quả tốt, thiện, lành; và ngược lại, những hành động hay nghiệp xấu, bất thiện, ác sẽ tạo ra những kết quả xấu, bất thiện, không lành. Vậy để tránh việc tái sinh sau này vào những cảnh giới xấu, không phúc lành, thì chúng ta phải tránh tạo nghiệp xấu, ác (akusala kamma).

Để làm được việc này, chúng ta cần sự hướng dẫn từ những người thật sự hiểu biết thật sự về quy luật vận hành và chi phối của Quy Luật Nghiệp Báo. Ngay cả khi chúng ta đã hiểu biết, phân biệt được những việc tốt và những việc xấu ác, hành động của chúng ta chưa chắc đã luôn luôn đi theo con đường tốt, thiện, bởi vì tâm chúng ta là cực kỳ khó kiểm soát. 

Và để hiểu được con đường để thực hiện những hành động hay nghiệp tốt và tránh né những nghiếp xấu, chúng ta cần sự hướng dẫn từ những người hiểu được những hành vi của tâm, giúp chúng ta kiểm soát được tâm, giải thoát được tâm ra khỏi những tâm xấu tạo nghiệp xấu. Đó là một cách diễn tả khác của việc tu tập. Và lại, những “pháp” nào sẽ giúp được chúng ta để chúng ta gọi đó là nơi nương tựa?.

(III) Những Hiểm Họa Của Vòng Luân Hồi Sinh Tử (Samsara)

Ngoài quá nhiều những tai họa, hiểm nguy mà chúng ta phải đối mặt trong đời sống hiện tại cũng như trong kiếp sống tương lai nếu rơi vào những cảnh giới xấu (Duggati), chúng ta còn phải đối mặt hay bị chi phối bởi những hiểm họa to lớn và khó xử hơn nhiều. Những nguy hại thật sự, nhìn thấy được, là khổ, luân hồi, tái sinh, già, chết, buồn đau, phiền não, đau đớn, sầu muộn và tuyệt vọng. Đó là những khổ đau từ bản chất, tức là khổ do khổ (khổ khổ), nhưng bên cạnh chúng còn những thứ khổ do biến đổi, thay đổi và những thứ khổ do điều kiện tác động, do nhân duyên trong vòng hiện hữu.

Giải pháp hay sự giải thoát này không được tìm thấy ở đâu, ngay cả trên cõi Trời Vô Sắc Giới cũng không có được, bởi vì sự sống ở những cõi đó cũng vô thườngtùy thuộc vào điều kiện, nhân duyên. Điều này hàm ý rằng, chỉ còn một cách là quay lưng lại, tránh né tất cả mọi hình thức tái sinh hay cõi sống, ngay cả những cõi sống tuyệt vời nhất trên thế giới trời thần.

Theo chân lý Tứ Diệu Đế về “Nguồn gốc Khổ”, thì chính tham muốn, dục vọng được hiện hữu, được liên tục sống (bhava-tanha) là nguyên nhân dẫn đến tái sinh, rồi tiếp tục tái sinh tạo ra ‘đất sống’ cho dục vọng tiếp tục khởi sinh và kéo dài mãi trong vòng luân hồi sinh tử (samsara).

Tâm điểm của bánh xe luân hồi chính là Vô Minh (avijja), là nguyên nhân gốc nằm bên dưới dục vọng. Vì vô minh, vì hiểu sai, vì không biết, vì chấp thủ, vì nhận lầm nên mới khởi sinh tham muốn, dục vọng.

Nên để xóa bỏ hết dục vọng (là nguyên nhân tái sinh), thì phải dẹp bỏ vô minh, xóa bỏ ngu dốt, u mê. Mà vô minh, ngu dốt, u mê thì chỉ bị xóa bỏ bằng kiến thức, bằng tri kiến, tức là trí tuệ.

Về mức độ cứu cánh, thì trí tuệ ở đây là kiến thức có thể đi sâu cho phép chúng ta “nhìn thấy được mọi sự vật như chúng là”. Để phát triển trí tuệ, chúng ta cần những phương pháp, những cách thực hành thích hợp và có những người có thể hướng dẫn chúng ta.

Từ những phân tích trên, chúng ta hiểu được rằng chúng ta nhất thiết phải cần có sự bảo vệ, nơi nương tựa để giúp chúng ta né tránh và thoát khỏi ba loại hiểm họa lớn đang “bao vây” và “rình rập” chúng ta. Nhiều luận giảng đã dùng lại từ bằng tiếng Pali là “himsati” (đè bẹp, nghiền nát) trong cách diễn tả thêm về ý nghĩa của nơi nương tựa “sarana”, như sau:

“Khi quy y vào nơi nương tựa, thì chính ngay việc quy y vào nơi nương tựa đó đã đè bẹp, xua tan, phá bỏ, chặn đứng những nỗi sợ, thống khổ, những ô nhiễm và nguy cơ tái sinh vào cảnh giới xấu của họ”



V
Ba Nơi Nương Tựa – Tam Bảo
(Tisarana)



Trong Phật giáo, có 3 nơi nương tựa cùng lúc mang lại sự bảo vệ cho con người tránh được ba loại hiểm họa đã phân tích trên. Đó là: Đức Phật, Giáo Pháp và Tăng Đoàn. Còn gọi là “Phật, Pháp, Tăng”. Những nơi nương tựa này không phải là ba nơi nương tựa hay ba sự bảo vệ khác nhau, mà cả ba liên quan với nhau, hữu cơ thành một “nơi nương tựa có ba yếu tố”.

Lấy một ví dụ đơn giản, nếu chúng ta bị bệnh tật và chúng ta thật sự muốn hết bệnh, chúng ta cần gặp một bác sĩ để chẩn đoán bệnh và đưa ra giải pháp hay cho toa thuốc để điều trị căn bệnh. Chúng ta cần có thuốc để chữa lành căn bệnh, và chúng ta cũng cần người chăm sóc, giúp đỡ khi chúng ta đang nằm bệnh. Vì bác sĩ và người chăm sóc không thể nào trị hết căn bệnh, mà họ chỉ chẩn đoán, đưa ra giải pháp (toa thuốc) và bảo đảm chúng ta được chăm sóc để uống thuốc, thực hiện việc điều trị một cách đúng đắn. Thuốc mới chính là giải pháp điều trị, để diệt căn bệnh và khôi phục sức khỏe.

Tương tự như vậy, để tìm ra giải pháp để diệt trừ đau khổ, chúng ta tìm đến Phật, như là một vị bác sĩ, lương y tận tình để tìm ra những nguyên nhân của “Khổ Đau” và chỉ cho chúng ta giải pháp để “điều trị” và làm hết được khổ đau. Giải pháp thì như là thuốc để trị liệu, tiêu trừ “căn bệnh” khổ đau, và Tăng Đoàn là những người chăm sóc chúng ta khi đang bệnh tật, giúp chúng ta thực hiện việc uống thuốc, điều trị đúng đắn để mau hết bệnh. Và để khỏi bệnh, chúng ta phải trực tiếp tự mình uống thuốc hay làm theo lời dặn của bác sĩ và người chăm sóc. Để hết đau khổ, để làm hết đau khổ, chúng ta phải tự mình thực hành Giáo Pháp (Dhamma), bởi vì Giáo Pháp mới chính là nơi nương tựa thật sự, là giải pháp, là thuốc thật sự, để dẫn đến sự chấm dứt Khổ.

Công hiệu hay kết quả của việc quy y vào nơi nương tựa là tùy thuộc vào mức độ tương xứng của sự hiểu biết về Tam Bảo và lòng tin của chúng ta vào Tam Bảo.

(I) Nương Tựa Phật – Phật Bảo

Về mặt lịch sử nhân loại, khi chúng ta nói đến từ “Phật” (Buddha) là chúng ta đang nói về một “con người” tên là Siddhatta Gotama (Tất-Đạt-Đa Cồ-Đàm) sống ở Ấn Độ vào khoảng thế kỷ thứ 5 trước CN. Khi chúng ta quy y nương tựa vào Phật, là chúng ta quy y nương tựa vào con người này, vì Người là người Thầy và người sáng lập ra đạo Phật. Tuy nhiên, quy y nương tựa vào Người không phải chỉ là một con người vật lý, bằng xương bằng thịt.

Phật trở thành một nơi để quy y, nương tựa bởi vì Phật là người giác ngộ tối thượng, một vị Phật Toàn Giác. Bởi vì Người cũng chính là người khai sáng, hướng dẫn người khác giác ngộ. Những ai đều giác ngộ và làm được 2 điều này thì đều được gọi là những vị Phật. Đây là khía cạnh tâm linh siêu xuất của đối tượng nương tựa này. Phật, như là nơi nương tựa, không còn là khái niệm thế tục, thế gian, mà thuộc về một đối tượng nương tựa siêu phàm thuộc tâm linh. Vì vậy, khi chúng ta quyết định nương tựa Phật, chúng ta dựa vào Phật làm nơi nương tựa vì Người đại diện cho sự Giác Ngộ tối thượng hay Phật tính, bao gồm tất cả những phẩm chất siêu phàm mà một bậc giác ngộ tối thượng có được, đó là:

- Đã diệt trừ hay đoạn trừ tất cả mọi ô nhiễm và bất tịnh. Đoạn trừ có nghĩa là mọi ô nhiễm đã được diệt trừ lần cuối, không còn bao giờ khởi sinh lại được nữa.

- Tích lũy tất cả những đức hạnh. Nói về những đức hạnh, công hạnh của một Đức Phật thì rất nhiều, nhưng hai phẩm hạnh cao quý nhất, siêu xuất nhất của Người là: Đại TríĐại Bi, là hai đức hạnh Người đã khai triển vì phúc lợi của người khác, dùng để giúp người hay ‘độ’ chúng sinh.

- Chúng ta quy y nương tựa vào Đức Phật, vì Người là thể hiện tối cao của sự thanh tịnh, trí tuệlòng bi mẫn, một bậc đạo sư vô đẳng, người có thể hướng dẫn cho chúng ta con đường đi đến an toàn, tránh xa biển dữ luân hồi sinh tử (samsara).

(II) Nương Tựa Giáo Pháp – Pháp Bảo

Có hai mức độ hay hai phạm trù của Giáo Pháp (Dhamma), đó là: Giáo Pháp thế gian, là những lời dạy hay giáo lý của Đức Phật được ghi chép lại trong Kinh Tạng. Tất cả những giáo lý này được nói ra và được dùng như là những hướng dẫn vào con đường tu tập được gọi là con đường Tám Phần hay “Bát Chánh Đạo” mà chúng ta đã có dịp học từ Chương III, bao gồm con đường Đạo Thế gian và Đạo Xuất thế gian, trong đó con đường Đạo Xuất thế gian chỉ có thể đến được bằng sự hiểu biết đúng đắn, sự giác ngộ về những chân lý của Tứ Diệu Đế. (Tâm) Thức của đạo xuất thế gian bứng rễ những ô nhiễm đi kèm, Thức này chỉ khởi sinh một lần vào mỗi giai đoạn trong 4 giai đoạn chứng ngộ, đó là: Sotapanna (Nhập lưu), Sakadagamin (Nhất Lai) , Anagamin (Bất Lai) và cuối cùng là A-la-hán (Vô Sinh).

Mỗi Thức con đường Đạo hay Thức Đạo được theo sau bằng thức Quả đánh dấu bằng sự tĩnh lặng khi những ô nhiễm bị nhổ sạch bằng những khoảng khắc đạo trước đó. Cả hai thức Đạo và thức Quả tạo ra khía cạnh hay phạm trù xuất thế gian của Giáo Pháp.

Những Giáo Pháp xuất thế gian là những giáo lý của Phật dạy cho chúng sanh tu tập để giải thoát khỏi luân hồi, như Tứ Diệu Đế, Mười Hai Nhân Duyên, Ba La Mật…

Bằng cách này, Giáo Pháp thật sự chính là nơi nương tựa thật sự.

(III) Nương Tựa Tăng Đoàn – Tăng Bảo

Theo khía cạnh truyền thống hay thế gian, thì Tăng Đoàn ở đây có nghĩa là Tăng Đoàn Tỳ Kheo (Bhikkhu Sangha), cộng đồng những tu sĩ đã thọ giới xuất gia, gồm những người tuân thủ và duy trì 227 giới luật tăng đoàn do chính Đức Phật chế ra và mọi người thấy được (chính kiến) đó là những giới luật đúng đắn. Tăng Đoàn Tỳ Kheo là đoàn thể các Tăng, Ni liên tiếp kế thừa từ 2.500 năm trước, được coi là những người gìn giữ và truyền thừa Giáo Pháp của Đức Phật. Đời sống Tỳ kheo (khất sĩ) cho phép tăng đoàn hoàn thành nhiệm vụ gìn giữ, truyền thừa và thực hành Giáo Pháp. 

Tuy nhiên, Tăng Đoàn Tỳ Kheo này không phải nơi nương tựa hay Tăng Bảo. Tăng Đoàn nơi nương tựa hay Tăng Bảo chính là Tăng Đoàn Thánh Tăng (Ariya Sangha), đó là cộng đồng gồm những thánh Tăng (Ni) đã chứng ngộ ít nhất một trong bốn tầng thánh quả. Những Thánh đệ tử của Đức Phật thì ít nhất mãi mãi không còn tà kiến và nghi ngờ, Giáo lý của Đức Phật đã cắm rễ sâu trong con người họ không còn phải tùy thuộc vào người khác trong việc thực hiện những việc tu tập còn lại trên con đường đi đến mục tiêu giải thoát cuối cùng. Vì đã có đủ sự hiểu biết và chứng ngộ bên trong, những vị tăng có được những phẩm chất và đức hạnh để hướng dẫn những người khác trên con đường hướng đến mục tiêu giải thoát.



VI
Những Yếu Tố Hỗ Trợ
Việc Quy Y Nương Tựa



Việc quy y vào Tam Bảo là thể hiện sự nương nhờ, nương tựa vào Tam Bảo và trở thành một Phật tử chân chính, đích thực. Tuy nhiên, đây chỉ là cách nói miệng về việc quy y. Kinh điển Phật giáo có nói rõ hơn về vấn đề quy y Tam Bảo này, nó bao gồm những việc đích thực có ý nghĩa hơn là việc tụng đọc mấy câu nghi thức của lễ quy y. Kinh điển định nghĩa việc quy y là một hành động tâm linh, đó là:

“Một hành động của (tâm) thức không còn ô nhiễm, được thúc giục bởi lòng tin và lòng thành kính đối với Tam Bảo như là nơi nương tựa tối cao”.

Như vậy, việc quy y Tam Bảo chỉ nên được thực hiện khi đã có đầy đủ lòng tinlòng thành kính đối với Tam Bảo, và nhận Tam Bảo là nơi nương tựa tối cao, là nguồn che chở duy nhất trên con đường giải thoát. Có 3 yếu tố đóng vai trò quan trọng trong việc quy y Tam Bảo:

(a) Sự Hiểu Biết

Chỉ có sự hiểu biết về chân lý hay Diệu Đế về Khổ thì một người mới tìm đến nơi nương tựa. Tâm trí của mình cũng nên hiểu rõ, nắm bắt được những tính chất, ý nghĩa (Xem thêm Chương XVI, về “Tưởng niệm về Phật, Pháp, Tăng”). Sự hiểu biết đúng đắn như vậy mới có thể giúp chúng ta càng thêm tin tưởng sâu đậm và nương nhờ vào Tam Bảo và thúc giục chính mình vào con đường tu tập, thực hành giáo Pháp.

(b) Tâm Nguyện Hướng Thiện hay Thiện Tâm

Việc quyết định quy y vào một nơi nương tựa là một hành động cố ý, hành động của ý chí (hay tâm Hành), đây là một hành động tự nguyện dựa vào tâm nguyện hướng thiện về giáo Pháp (dhammachanda) để giải thoát khỏi những khổ đau và những hiểm họa. Tâm nguyện càng mạnh mẽ thì sự thúc giục tâm linh càng mạnh mẽ, giúp mình mau chóng và siêng năng thực hành theo giáo Pháp của Đức Phật.

(c) Lòng Tin và Lòng Thành Kính

Căn bản của Trí Tuệ phải được cân bằng với căn bản của Lòng Tin hay lòng Thành Tín. Trí Tuệ nếu không có Lòng Tin thì dễ làm cho người ta hoài nghi hay ngờ vực, trong khi đó Lòng Tin mà không đi kèm hay dựa vào Trí Tuệ thì dễ làm cho người ta trở nên u mê. Khi quy y vào Tam Bảo, Lòng Tin của một người phải nên dựa vào sự tự tin, xác tín hay sự tín nhiệm vào năng lực bảo hộ của Tam Bảo, cùng với sự hiểu biết về những tính chất và ý nghĩa của Tam Bảo. Sự tự tin, xác tín tạo ra lòng tôn kính hay thành kính. Khi một người đã nhận thấy được hay trải qua tác động chuyển hóa của Giáo Pháp vào đời sống của mình, thì người đó mới càng thêm thức tỉnh và lòng tôn kính nơi Tam Bảo được tăng lên, tâm của người đó càng hướng mạnh mẽ về Tam Bảo và càng dấn thân, siêng năng và kiên trì thực hành giáo Pháp của Đức Phật.



VII
Sự Bất Tịnh và Hủy Bỏ Trong Quy Y



Những sự không thanh tịnh hay sự lệch lạc trong vấn đề quy y nương tựa là những yếu tố làm cho việc nương tựa không còn được thanh tịnh, không chân thành, và không còn được hiệu nghiệm. Thông thường có 3 yếu tố làm ô nhiễm việc quy y nương tựa, đó là:

(1) Sự Ngu Dốt

Đó là khi một người không hiểu biết rõ về lý do của việc quy y nương tựa, ý nghĩa của việc quy y nương tựa hoặc/và những tính chất, ý nghĩa của những đối tượng mình chọn làm nơi nương tựa, chẳng hạn không hiểu biết về tính chất tối cao và ý nghĩa cứu cánh của Phật, Pháp và Tăng.

(2) Sự Ngờ Vực

Đó là khi một người không có được sự tự tin hay lòng tin tưởng vào Tam Bảo. Sự quy y hay giao phó bản thân tâm linh vào Tam Bảo lúc đó bị mai một, bị hoen ố bởi sự rối tâm, ngờ vực và không dứt khoát. Sự ngờ vực là một trong những chướng ngại cho mọi tiến bộ về tâm linh và bất kỳ sự tiến bộ nào của con người. Như vậy, điều cần thiết là phải có lòng tin, lòng xác tín để có tính quyết định. Muốn có lòng tin phải quay lại phải có sự hiểu biết, trí tuệ, vì lòng tin chính đáng, đúng đắn phải dựa vào sự hiểu biết về nguyên nhân và ý nghĩa của Tam Bảo. Nếu không có sự hiểu biết thì lòng tin đó là tin vào cái gì hay chỉ đem lại sự ngờ vực để rồi làm thối chí quy y.

(3) Quan Điểm Sai Lạc (Tà Kiến)

Đó là những sự hiếu biết sai về việc quy y nương tựa hay về những đối tượng được làm nơi nương tựa, ở đây là Phật, Pháp, Tăng. Ở đây một người có thể nghĩ đơn giản rằng, chỉ cần chấp nhận quy y Tam Bảo là có được sự bảo đảm về giải thoát khỏi hiểm nguy sau này.

Hoặc, buồn thay, đại đa số con người ngày nay nghĩ rằng Đức Phật là một đấng thượng đế có năng lực cứu rỗi con người chứ không cần con người nỗ lực tự cứu mình;

Hoặc có người còn tin rằng Giáo Pháp dạy cho con người làm vậy để tạo “quả tốt” cho một linh hồn bất tử sau này,

Hoặc Tăng Đoàn là một đại diện trung gian để con người thông qua đó nương tựa vào Đức Phật để được giải cứu hay gia hộ.

Tuy nhiên, ngay cả khi việc quy y không được thanh tịnh, bị những yếu tố, tư tưởng lệch lạc và bất tịnh về nguyên nhân và ý nghĩa của việc quy y và về ý nghĩa của Tam Bảo, sự quy y này vẫn được xem là nguyên vẹn và người Phật tử vẫn được xem là một Phật tử cho đến khi nào người ấy còn chấp nhận Tam Bảo là nơi nương tựa tối cao duy nhất của mình, dù người đó không thật sự hiểu biết được trọn vẹn nguyên nhân và ý nghĩa thanh tịnh của viếc quy y của mình.

Tuy nhiên, sự thiếu hiểu biết hay thái độ quy y trong “tâm” như vậy là sai lạc, và những người như vậy cần sửa sai từ hiểu biết của mình cho đúng đắn bằng cách nhờ vào lời hướng dẫn, khuyên dạy của một hay những người thầy. Những người thầy (là các Tăng, Ni hay một người hiểu biết trọn vẹn) sẽ giúp cho những người đó vượt qua những bất tịnh là ngu dốt, sự ngờ vực và quan điểm sai lầm.

Đó là vấn đề những lệch lạc hay sự không thanh tịnh trong hành động quy y và trong suy nghĩ của người về những đối tượng quy y là Tam Bảo.

Còn sự Hủy Bỏ Nương Tựa hay không còn quy y Tam Bảo cũng xảy ra đối với nhiều người phàm, tại gia. Đối với những Thánh nhân hay đệ tử Đức Phật thì lòng tin và sự quy y vào Tam Bảo là bất thối chuyển, và Tam Bảo đối với họ cũng không bao giờ thay đổi được. Trong trường hợp người phàm phu, việc hủy bỏ hay không được quy y xảy ra đối với một người khi chết đi. Sự hủy ngang đó là không có lỗi, là không có ý, ngoài ý muốn.

Sự hủy bỏ quy y đáng ‘tội nghiệp’ và ‘đáng trách’ của một người là khi người đó từ chối hay không còn tôn kính Đức Phật là một nơi nương tựa tối cao, và vì nghĩ rằng có những đấng đạo sư khác cao siêu hơn Phật;

Hoặc người đó thay đổi từ con đường đạo Phật sang những tôn giáo khác và nghĩ rằng hệ thống tư tưởng của tôn giáo khác tốt đẹp hơn Giáo Pháp của Phật.

Hoặc người đó chuyển qua tham gia vào một cộng đồng hay đoàn thể tôn giáo khác và vì người ấy nghĩ rằng những cộng đồng đó tốt đẹp hơn Thánh Tăng đoàn.

Sự hủy bỏ lòng tin hay quy y vào một trong ba đối tượng của Tam Bảo thì mặc nhiên là hủy bỏ lòng tin và quy y vào tất cả Tam Bảo. Không thể có chuyện có thể bạn quy y vào Phật mà không tin vào Giáo Pháp và Tăng Đoàn; Hoặc bạn đến chùa quy y vào Tăng sĩ mà lại không mấy tin và nương tựa vào Phật và Pháp.

Về ý nghĩa tâm linh, nếu ai dung dưỡng những thái độ hay suy nghĩ về một biểu tượng nào như là một nơi nương tựa tối cao về mặt tâm linh ngoài Tam Bảo, thì người đó đã tự cắt đứt sự quy y của mình vào Tam Bảo và đã tự tuyên bố mình không còn là một Phật tử nữa.

Sau đó, nếu người đó thay đổi và muốn sự quy y vào Tam Bảo có hiệu lực trở lại, thì việc quy y phải được làm lại từ đầu theo nghi thức, mặc dù nghi thức quy y là đơn giản, nhưng điều cần thiết là phải làm lại từ đầu, vì sự quy y cũng cần có những thái độ nghiêm túc khác đi kèm, như: trí tuệ hiểu biết về nguyên nhân và ý nghĩa của việc quy y Tam Bảo, lòng tin vào Tam Bảo và những tâm nguyện hướng thiện về giải thoát.




VIII
Ích Lợi Của Việc Quy Y Tam Bảo



Bằng việc quy y Tam Bảo, một người đã thể hiện tâm nguyện là muốn được hướng dẫn bằng những giáo lý của Đức Phật. Hướng dẫn làm gì? Hướng dẫn để bước đi trên con đường đạo, tu tập một cách thiết thực bằng hành động, vì giáo Lý của Đức Phật không phải là một học thuyết để cứu rỗi con người căn cứ trên đức tin của họ. Như đã thảo luận trước đây, việc quy y đơn giản là giúp cho một người cân bằng căn trí tuệ với lòng tin tưởng và sự thực hành giáo pháp. Đó là điều kiện cần thiết để một người có thể tiến đến giác ngộ Chân lý và Niết-bàn.

Đối với những ai thường xuyên nương tựa vào Tam Bảo bằng sự hiểu biết đúng đắn, bằng lòng tin tưởnglòng thành kính, thì việc quy y đó là hành động “đè bẹp, xua tan, phá bỏ, chặn đứng nhũng nỗi sợ, thống khổ, những ô nhiễm và nguy cơ tái sinh vào cảnh giới xấu của họ”.

Đối với những người mới đến với đạo Phật, thì hành động quy y đơn giản sẽ là khởi sinh lòng tin (saddha), lòng tin là người dẫn dắt những trạng thái tâm hướng thiện. Vào những lúc gặp nhiều áp lực và nỗi sợ trong cuộc đời, một câu tụng quy y đơn giản “Buddham Saranam Gacchami” hay “Con xin nương tựa vào Phật” thì cũng đủ làm xoa dịu tâm trí, làm yên ủi lòng mình. Điều đó hoàn toàn xảy ra khi bạn tâm niệm nương tựa vào một đối tượng mạnh mẽ, tốt lành.

Những đứa trẻ của những gia đình Phật tử cũng nên được dạy để tâm trí từng đêm nương tựa vào Phật, Pháp, Tăng để tăng trưởng lòng tin và làm cho tinh thần thư thái, không gặp ác mộng hay những phiền toái trong giấc ngủ.

Khi tác giả hỏi một số thành viên trong lớp học Kinh Tạng, một số người là những người thực hành môn Yoga, rằng nếu họ đang ngồi trên một máy bay đang gặp sự cố và có thể bị rớt bất cứ giây phút nào, thì họ sẽ làm gì? Họ sẽ nhắm mắt và thiền hay niệm Tam Bảo gia hộ? Đa số đều trả lời rằng đọc niệm một câu “Con xin nương tựa vào Phật” là dễ làm nhất để tâm cảm thấy được yên ủi nhất. Đó là năng lực bảo vệ của Tam Bảo, mặc dù đơn giản nhưng rất có hiệu lực tốt về mặt tâm linh vào những lúc cần kíp như vậy.



IX
Sách và Tài Liệu Tham Khảo



1. “Tam Bảo. Kinh Tiểu Tụng” (Khuddakaptha) và “Luận Giảng về Kinh Tiểu Tụng” (Paramatthajotika, Phần 1). Bản dịch từ tiếng Pali của Ngài Bhikkhu Nanamoli. Hội Kinh Điển Pali (PTS), London, 1978

2. “Quy Y Nương Tựa”, tác giả Ngài Bhikkhu Bodhi trong Số Phát Hành “Wheel Publication No. 282/284”, Hội Ấn Bản Phật Giáo (Buddhist Publication Society), Tích Lan.

3. “Tisarana” (Tam Bảo), tác giả Ngài thiền sư U Sein Nyo Tun (Late of the Indian Civil Service). Bài Viết này đã được đăng trên trang nibbana.com.


Trích từ cuốn GIÁO TRÌNH PHẬT HỌC do cư sĩ LÊ KIM KHA
dịch từ cuốn BUDDHISM COURSE của CHAN KHOON SAN













Nhận xét

BÀI ĐĂNG PHỔ BIẾN

Kinh Tăng Chi Bộ - 10 kiết sử

(III) (13) Các Kiết Sử 1. - Này các Tỷ-kheo, có mười kiết sử này. Thế nào là mười? 2. Năm hạ phần kiết sử, năm thượng phần kiết sử. Thế nào là năm hạ phần kiết sử? 3. Thân kiến, nghi, giới cấm thủ, dục tham, sân. Ðây là năm hạ phần kiết sử.

Thiền Vipassana - Thiền Tứ Niệm Xứ (Thích Trí Siêu)

Thiền Tứ niệm xứ (Thích Trí Siêu -  1998) _______________________ Mục Lục [1] Vài lời cùng bạn đọc [2] Mở đầu  [3] Tứ Niệm Xứ và Bát Nhã Tâm Kinh  [4] Tứ Niệm Xứ và Thiền Tông  [5] Thiền và Tịnh Ðộ  [6] Tứ Niệm Xứ và Bồ Tát Ðạo  [7] Phương pháp hành thiền Tứ Niệm Xứ  [8] Kết luận [9] Phụ Lục - Kinh Quán Niệm Sách Thiền Tứ Niệm Xứ đã được tái bản nhiều lần. Riêng trong kỳ tái bản này sách được bổ túc thêm phần Phụ Lục với Kinh Niệm Xứ, dịch từ "Discourse on the Applications of Mindfulness" (Satipatthanasutta) trong "Middle Length Sayings" (Trung Bộ Kinh) của Pali Text Society, I.B. Horner, 1967.

Kinh Tương Ưng Bộ - Tham luyến

I. Tham Luyến (Tạp 2, Ðại 2,9a) (S.iii,53) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, tham luyến là không giải thoát. Do tham luyến sắc, này các Tỷ-kheo, thức có chân đứng được an trú. Với sắc là sở duyên, với sắc là trú xứ, (thức) hướng tìm hỷ, đi đến tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh. 4) Hay do tham luyến thọ ... tham luyến tưởng ... tham luyến hành, này các Tỷ-kheo, thức có chân đứng được an trú. Với hành là sở duyên, với hành là trú xứ, (thức) hướng tìm hỷ, đi đến tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh. 5) Này các Tỷ-kheo, ai nói như sau: "Ngoài sắc, ngoài thọ, ngoài tưởng, ngoài các hành, tôi sẽ chỉ rõ sự đến hay đi, sự diệt hay sanh, sự tăng trưởng, sự tăng thịnh hay sự lớn mạnh của thức", sự việc như vậy không xảy ra. 6-10) Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với sắc giới; do tham được đoạn tận, sở duyên được cắt đứt, chỗ y chỉ của thức không có hiện hữu. Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với thọ giới... đối với t...

TÌM HIỂU KINH PHẬT - TƯƠNG ƯNG BỘ TẬP 3 - Chương 9 - Tương Ưng Kim Xí Ðiểu

PHẦN CHÁNH KINH KINH TƯƠNG ƯNG TẬP 3 [30] Chương IX: Tương Ưng Kim Xí Ðiểu I. Chủng Loại (S.iii,246) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại Kim xí điểu về sanh chủng. Thế nào là bốn? Loại Kim xí điểu từ trứng sanh, loại Kim xí điểu từ thai sanh, loại Kim xí điểu từ ẩm ướt sanh, loại Kim xí điểu hóa sanh. Này các Tỷ-kheo, đây là bốn loại Kim xí điểu. II. Mang Ði (Tăng 19, Ðại 2, 646a) (S.iii,247) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại Kim xí điểu về sanh chủng. Thế nào là bốn? Loại Kim xí điểu từ trứng sanh... loại Kim xí điểu hóa sanh. Này các Tỷ-kheo, đây là bốn loại Kim xí điểu. 4) Tại đây, này các Tỷ-kheo, các loại Kim xí điểu từ trứng sanh chỉ mang đi các loại Nàga từ trứng sanh, không mang đi các loại Nàga từ thai sanh, từ ẩm ướt sanh và hóa sanh. 5) Tại đây, này các Tỷ-kheo, các loại Kim xí điểu từ thai sanh, mang đi các loại Nàga từ trứng sanh và các loại Nàga từ thai sanh, không mang đi các loại Nàga từ ẩm ướt sanh và các loại...

Kinh Tương Ưng Bộ - Sức mạnh của Đàn Bà

30. VI. Họ Ðuổi Ði (S.iv,247) 1) ... 2) -- Này các Tỷ-kheo, người đàn bà có năm sức mạnh này. Thế nào là năm? Sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, sức mạnh con trai, sức mạnh giới hạnh. 3) Này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc và sức mạnh tài sản, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, nếu người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, sức mạnh con trai, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. 4) Này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh giới hạnh,...

Kinh Tương Ưng Bộ - Vô ngã tưởng

VII. Năm Vị (Vô ngã tưởng) (Ðại 2,7c) (Luật tạng, Ðại phẩm q.1, từ trang 3) (S.iii,66) 1) Một thời Thế Tôn ở Bàrànasi (Ba-la-nại), tại Isìpatana (Chư Tiên đọa xứ), vườn Lộc Uyển. 2) Ở đây Thế Tôn nói với đoàn năm vị Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo". -- "Thưa vâng bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau: 3) -- Sắc, này các Tỷ-kheo, là vô ngã. Này các Tỷ-kheo, nếu sắc là ngã, thời sắc không thể đi đến bệnh hoạn và có thể được các sắc như sau: "Mong rằng sắc của tôi là như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!" 4) Và này các Tỷ-kheo, vì sắc là vô ngã. Do vậy sắc đi đến bệnh hoạn, và không thể có được các sắc: "Mong rằng sắc của tôi như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!"

Kinh Tương Ưng Bộ - Ví dụ mũi tên

6. VI. Với Mũi Tên (S.iv,207) 1-2) ...  3) -- Này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu, cảm thọ cảm giác lạc thọ, cảm thọ cảm giác khổ thọ, cảm thọ cảm giác bất khổ bất lạc thọ. 4) Này các Tỷ-kheo, bậc Ða văn Thánh đệ tử cũng cảm thọ cảm giác lạc thọ, cảm thọ cảm giác khổ thọ, cảm thọ cảm giác bất khổ bất lạc thọ. 5) Ở đây, này các Tỷ-kheo, thế nào là đặc thù, thế nào là thù thắng, thế nào là sai biệt giữa bậc Ða văn Thánh đệ tử và kẻ vô văn phàm phu?

Kinh Tăng Chi Bộ - Ác ý

(VIII) (18) Con Cá 1. Một thời, Thế Tôn đang du hành giữa dân chúng Kosala cùng với đại chúng Tỷ-kheo. Trong khi đi giữa đường, Thế Tôn thấy tại một chỗ nọ, một người đánh cá, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá. Thấy vậy, Ngài bước xuống đường và ngồi xuống trên chỗ đã sửa soạn dưới một gốc cây. Sau khi ngồi, Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo: 2. - Này các Tỷ-kheo, các Thầy có thấy người đánh cá kia, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá? - Thưa có, bạch Thế Tôn. - Các Thầy nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo, các Thầy có thấy hay có nghe như sau: "Một người đánh cá, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá; do nghiệp ấy, do mạng sống ấy, được cưỡi voi, cưỡi ngựa, cưỡi xe, cưỡi cỗ xe, được thọ hưởng các tài sản, hay được sống giữa tài sản lớn hay tài sản chất đống"? - Thưa không, bạch Thế Tôn.

Kinh Tương Ưng Bộ - Dục là căn bản của Khổ

XI. Bhadra (Hiền) hay Bhagandha-Hat- Thaha (S.iv,327) 1) Một thời Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Malla tại Uruvelakappa, một thị trấn của dân chúng Malla. 2) Rồi thôn trưởng Bhadraka đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. 3) Ngồi xuống một bên, thôn trưởng Bhadraka bạch Thế Tôn: -- Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn thuyết cho con về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ! -- Này Thôn trưởng, nếu y cứ vào thời quá khứ, Ta thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ, nói rằng: "Như vậy đã xảy ra trong thời quá khứ"; ở đây, Ông sẽ phân vân, sẽ có nghi ngờ. Này Thôn trưởng, nếu y cứ vào thời vị lai, Ta thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ, nói rằng: "Như vậy sẽ xảy ra trong thời tương lai"; ở đây, Ông sẽ có phân vân, sẽ có nghi ngờ. Nhưng nay Ta ngồi chính ở đây, này Thôn trưởng, với Ông cũng ngồi ở đây, Ta sẽ thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ. Hãy lắng nghe và suy nghiệm kỹ, Ta ...

Kinh Trung Bộ - 27. Tiểu kinh Dụ dấu chân voi

27. Tiểu kinh Dụ dấu chân voi (Cùlahatthipadopama sutta) Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ) tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Ðộc). Lúc bấy giờ Bà-la-môn Janussoni, với một cỗ xe toàn trắng do ngựa cái kéo, vào buổi sáng sớm, ra khỏi thành Savatthi. Bà-la-môn Janussoni thấy Du sĩ Pilotika từ xa đi đến, sau khi thấy, liền nói với Du sĩ Pilotika: -- Tôn giả Vacchàyana đi từ đâu về sớm như vậy? -- Tôn giả, tôi từ Sa-môn Gotama đến đây. -- Tôn giả Vacchayana nghĩ thế nào? Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt không? Tôn giả có xem Sa-môn Gotama là bậc có trí không? -- Tôn giả, tôi là ai mà có thể biết Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt? Chỉ có người như Sa-môn Gotama mới có thể biết Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt.