Phước đức và công đức
Nhiều người thắc mắc về sự khác biệt giữa công đức và phước đức. Nhất là sau khi nghe cuộc đối thoại giữa vua Lương Võ Đế và tổ Bồ Đề Đạt Ma.
Đa số trong các kinh, hai danh từ phước đức và công đức thường được dùng như nhau và mang cùng ý nghĩa. Thí dụ một kinh ngắn như "Kinh 42 chương ", chương thứ 10 "Hoan hỷ bố thí tất được phước", đức Phật dạy: "Thấy người tu đạo bố thí mà hoan hỷ trợ giúp thì sẽ được phước rất lớn"; chương 11 "Sự gia tăng của công đức", trong việc bố thí thức ăn, đức Phật dạy: "Đãi 100 người ác ăn, không bằng đãi một người thiện ăn. Đãi 1000 người thiện ăn, không bằng đãi một người trì ngũ giới ăn. Đãi một vạn người trì ngũ giới ăn, không bằng cúng dường cho một vị Tu đà hoàn ăn. Cúng dường một trăm vạn vị Tu đà hoàn ăn, không bằng cúng dường cho một vị Tư đà hàm ăn ...". Như vậy thì bố thí cúng dường thức ăn cho 100 người ác cũng cho ra công đức nhưng ít hơn là cúng cho một người thiện ăn.
Thí dụ một kinh khác như kinh Địa Tạng , phẩm thứ 10 "So sánh nhân duyên công đức của sự bố thí", bồ tát Địa Tạng hỏi: "Bạch đức Thế-Tôn! Con xem xét chúng sanh trong nghiệp đạo so sánh về sự bố thí có nhẹ có nặng. Có người hưởng phước trong một đời, có người hưởng phước trong mười đời, hoặc đến hưởng phước lợi lớn trong trăm đời, nghìn đời.
Những sự ấy tại làm sao thế? Cúi xin đức Thế-Tôn dạy cho". Bấy giờ đức Phật bảo Địa-Tạng Bồ Tát rằng: "Nay ta ở trong toàn thể chúng hội nơi cung trời Đao Lợi này giảng về sự so sánh công đức lớn nhỏ của việc bố thí ở Diêm Phù Đề. Ông phải lóng nghe, ta sẽ vì ông mà nói!" ... "Nếu có thể đem phước lành bố thí đó mà hồi hướng cho tất cả chúng sanh trong pháp giới, thời vị Quốc Vương đó, trong mười kiếp thường được làm vị trời Đại Phạm Thiên Vương" ... "Nếu lại ở trước chùa tháp có thể phát tâm đem công đức cúng dường bố thí đó mà hồi hướng về đạo vô thượng chánh giác, được như vậy thời vị Quốc Vương đó cho đến tất cả mọi người đều sẽ thành Phật cả, bởi quả báo ấy rộng lớn vô lượng vô biên" ...
"Nếu lại có thể đem phước đức đó hồi hướng đạo Bồ Đề, thời không luận là nhiều hay ít, rốt ráo sẽ thành Phật cả, huống gì cả những quả trời Phạm Vương, trời Đế Thích, Vua Chuyển Luân". Tôi không thể chép hết những đoạn kinh này vào đây, nhưng trong đó cứ một đoạn nói phước đức bố thí, và đoạn sau lại nói công đức bố thí, cho thấy phước đức bố thí hay công đức bố thí cũng cùng một nghĩa không có gì khác biệt.
Phước đức hay công đức được dịch từ chữ Punna (Pali), Punya (Sanskrit), đơn giản có nghĩa là một hành động lành, một việc thiện, một việc có đức.
Một việc có đức thì sẽ cho ra quả phước cho nên gọi là phước đức. Và một việc lành thường không phải dễ làm, nó đòi hỏi người làm phải ra công sức, chống lại bản tánh tham lam, bỏn xẻn, sân, si, ác độc, nên còn được gọi là công đức.
Nhưng rồi một ngày nọ trong thiền sử, tổ Bồ Đề Đạt Ma từ Ân Độ qua Trung Hoa truyền đạo dưới thời vua Lương Võ Đế. Vua Lương là người sùng đạo và ủng hộ Phật Pháp nhiệt thành, mời tổ vào cung hỏi đạo. Vua hỏi: "Trẫm từng xây hàng ngàn chùa tháp, độ hàng vạn tăng ni, vậy trẫm có công đức gì không?" Tổ Đạt Ma đáp: "Không có công đức gì cả". Thế là cuộc vấn đáp này trở thành một công án trong nhà Thiền và từ đó người ta cho rằng việc làm của vua Lương chỉ là phước đức chứ không phải công đức. Và rồi công đức khác với phước đức kể từ đó.
Vì cho là khác nên người ta cần đặt ra những định nghĩa mới cho phù hợp, thí dụ như phước đức là hữu lậu , giới hạn, còn công đức là vô lậu, vô biên.
Phước đức là việc lành cầu lợi cho mình, gia đình mình, còn công đức là việc lành hồi hướng cho chúng sinh. Phước đức là việc lành còn chấp ngã, còn công đức là việc lành vô ngã, trong đó không có người làm, người nhận, v.v... Mải mê định nghĩa phân tách sự khác biệt giữa công đức và phước đức mà quên bẵng lý do tại sao tổ Đạt Ma nói vua Lương chẳng có công đức gì hết. Những câu nói của thiền sư nhằm mục đích khai ngộ cho người hỏi chứ không phải giảng kinh luận, chỉ là phương tiện chứ không phải cứu cánh. Vua Lương làm phước mà còn chấp Ta là người làm nhiều việc phước, không có ai bằng mình, gặp ai cũng khoe, đó là cống cao ngã mạn. Vì vậy nếu vua có hỏi: "Trẫm có phước đức gì không?" thì tổ Đạt Ma cũng sẽ đáp "Không có phước đức gì cả". Tổ đáp một câu phủ nhận như vậy cốt khai ngộ và phá chấp cho vua chứ không có ý phân biệt công đức hay phước đức. Cũng như có người hỏi tổ Triệu Châu: "Con chó có Phật tánh không?", với người này thì tổ đáp là có, nhưng với người kia thì tổ đáp là không, hoàn toàn bất định.
Ban đầu hai chữ phước đức và công đức không khác gì nhau, nhưng giờ đây sự khác biệt của nó đã ăn sâu vào tâm thức cộng đồng, nên nếu có ai hỏi tôi công đức khác phước đức chỗ nào thì tôi cũng sẽ nói phước đức là hữu lậu, xài hoài có ngày phải hết; còn công đức là vô lậu, xài hoài không bao giờ hết cho tới ngày thành Phật. Công đức cao hơn phước đức. Tuy nhiên tôi cần nói thêm là bạn vẫn có thể biến phước đức thành công đức, bằng cách sau khi làm phước xong thì hồi hướng phước đó với mục đích cao thượng như cầu giác ngộ giải thoát, hoặc cầu cho chúng sinh được thoát khỏi đau khổ luân hồi.
Cả hai người cùng bỏ tiền cúng dường vào thùng phước sương nhưng một người làm với tâm mong cầu đời sau được giàu sang, còn một người làm với tâm hộ trì Tam Bảo và hồi hướng phước đức cầu cho chúng sinh thoát khổ nghèo đói. Việc làm của người trước trở thành phước đức, còn việc làm của người sau trở thành công đức. Sự khác biệt nằm ở tâm nguyện trước và sau khi làm việc thiện.
Hồi hướng là bố thí
Ở chùa, cuối các thời kinh đều tụng bài hồi hướng công đức, và sau mỗi thời thuyết pháp cũng có hồi hướng công đức. Bài hồi hướng thường được tụng như sau:
Nguyện đem công đức này Hướng về khắp tất cả Đệ tử và chúng sinh Đều trọn thành Phật đạo.
Tại sao lại phải hồi hướng công đức, và tại sao không giữ công đức đó cho mình hoặc hồi hướng cho gia đình, họ hàng của mình mà lại đem cho chúng sinh?
Trong khi tụng kinh thì thân quỳ lạy trang nghiêm, miệng tụng lời kinh Phật, tâm không suy nghĩ chuyện đời, nhờ đó mà ba nghiệp thân, khẩu, ý được thanh tịnh, sinh ra phước đức.
Trong một buổi thuyết pháp thì người thuyết và người nghe đều có phước. Người thuyết thì được phước do bố thí pháp, người nghe thì thâu thập lời giảng, tích lũy phước trí, đời sau được thông minh, trí tuệ. Dù có hồi hướng hay không thì vẫn có phước đức.
Tụng kinh, nghe pháp đều là những việc phước, đời sau sẽ tự động cho ra quả báo tốt. Nhưng hồi hướng tức là từ bi nghĩ đến những chúng sinh vô phước, không biết làm phước. Vì vô phước, không biết làm phước nên bị đọa lạc vào ba đường ác. Một khi bị đọa thì làm sao có cơ hội làm phước? Do đó, đã khổ lại càng khổ thêm.
Những người nghèo đói mà được cơm ăn, áo mặc thì họ vui mừng biết bao. Đối với những người nghèo đói thì chúng ta giúp họ bằng tiền bạc, cơm áo.
Nhưng đối với chúng sinh cõi khác, nhất là loài ngạ quỷ, họ không xài tiền hoặc ăn uống như mình được nhưng họ cần phước để được an lành, thoát khổ. Khi chúng ta hồi hướng, đó chính là bố thí phước của mình cho họ. Hồi hướng như vậy không hết phước mà lại còn gia tăng. Khi hồi hướng đến một người thì phước của ta tăng lên một, khi hồi hướng đến một trăm người thì phước của ta tăng lên gấp trăm. Và khi hồi hướng đến tất cả chúng sinh thì phước của ta trở thành vô lượng, vô biên, và khi đó phước đức nhỏ bé của ta trở thành công đức vô lượng, vô biên. Và thêm nữa, chúng ta hồi hướng phước của mình cho chúng sinh, không phải để cầu cho họ giàu sang, sung sướng mà cầu cho họ đi hết con đường của Phật, tức là thành Phật và giải thoát, đó là sự mong cầu cao thượng nhất, và như thế công đức đã vô lượng thì nay lại càng thêm vô lượng không thể nghĩ bàn hay tính đếm.
Ngoài đời người ta có câu "Mình ăn thì hết, mà người ăn thì còn", nếu mình xin được một bát cơm mà ăn một mình thì chỉ no được một bữa, nhưng nếu biết xớt ra chia cho nhiều người khác thì họ sẽ mang ơn mình và giúp đỡ mình khi hoạn nạn, như thế có phải người ăn thì còn không? Miếng ăn nhỏ nhoi mà còn như thế, huống chi phước đức, nhất là hồi hướng cho vô lượng chúng sinh?
Bài viết được Đạo Phật Nguyên Thủy trích từ cuốn sách
Dòng Đời Vô Tận của Hòa thượng Thích Trí Siêu
Nhận xét
Đăng nhận xét