(CCXLIX) Pàràpariya (Thera. 72)
Trong thời đức Phật tại thế, ngài sanh ở Sàvatthi, làm một con Bà-la-môn nổi tiếng, và khi lớn lên ngài được gọi theo tên gia tộc Pàrapara là Pàràpariya. Ðược khéo giáo dục về văn hệ Bà-la-môn, một hôm ngài đi đến tịnh xá Jetavana trong khi Thế Tôn đang thuyết pháp, và đến ngồi nghe, gần phía bên ngoài hội chúng. Bậc Ðạo Sư, nhận xét tâm tánh ngài, dạy kinh 'Căn tu tập Indriyabhàvanà', nghe xong, ngài khởi lòng tin, xin xuất gia. Sau khi học kinh này thuộc lòng, ngài suy tư trên ý nghĩa, nghĩ rằng: 'Trong những bài kệ, ý nghĩa được xuất hiện như thế này, thế này'. Sau khi suy tư về vấn đề các căn cảm thọ, ngài phát triển thiền quán và sau một thời gian, ngài chứng quả A-la-hán.
Về sau, ngài nói lên thiền định của ngài với những bài kệ như sau:
726. Khi Tỷ-kheo tên là,
Pàràpariya,
Ngồi độc cư một mình,
Viễn ly, tu thiền định,
Những tâm tư như sau,
Ðược khởi lên nơi ngài:
727. Có gì là thứ lớp,
Là giới cấm, động tác?
Con người làm phận mình,
Không làm hại một ai?
728. Các căn của loài Người,
Làm lợi ích, làm hại,
Không hộ trì, làm hại,
Có hộ trì, làm lợi.
729. Người chế ngự các căn,
Nguời phòng hộ các căn,
Người làm bổn phận mình,
Không làm hại một ai.
730. Con mắt đi đến sắc,
Không chế ngự ngăn chận,
Không thấy các nguy hiểm,
Vị ấy không thoát khổ.
731. Lỗ tai đi đến tiếng,
Không chế ngự ngăn chặn,
Không thấy sự nguy hiểm,
Vị ấy không thoát khổ.
732. Không thấy sự xuất ly,
Thọ hưởng các mùi hương,
Vị ấy không thoát khổ,
Vì tham đắm các hương.
733. Nhớ chua ngọt tối thượng,
Nhớ vị đắng tối thượng,
Bị ái vị nô lệ,
Tâm không thể giác tỉnh.
734. Tưởng nhớ các cảm xúc,
Ðẹp đẽ và khoái cảm,
Ðam mê, duyên tham ái,
Gặp nhiều loại đau khổ.
735. Ý đối các pháp này
Tất cả là năm pháp,
Không có thể phòng hộ,
Khổ đi theo vị ấy.
736. Phần lớn các thân xác,
Ðầy tràn mủ và máu,
Do người thù thắng làm,
Thành hộp đẹp tô màu.
737. Cay đắng như vị ngọt,
Khổ do khả ái buộc,
Như dao bén dính mật,
Kẻ tham đâu có biết.
738. Ai tham đắm nữ sắc,
Nữ vị, nữ xúc chạm,
Ai mê say nữ hương,
Gặp nhiều loại đau khổ.
739. Mọi dòng từ nữ nhân,
Năm loại tràn năm xứ,
Người có tinh tấn lực,
Có thể ngăn chận chúng.
740. Người có đích, trú pháp,
Người thiện xảo, sáng suốt,
Hoan hỷ làm nghĩa vụ,
Liên hệ đến pháp, nghĩa.
741. Chìm trong việc lợi tạm,
Hãy bỏ việc không lợi,
Nếu nó nghĩ việc ấy,
Không phải việc nên làm,
Vị ấy không phóng dật,
Sáng suốt thấy rõ vậy.
742. Nếu là việc làm tốt,
Hân hoan hành đúng pháp,
Hãy nắm việc làm ngay,
Ðấy thật lạc tối thượng.
743. Với phương tiện cao thấp,
Lừa dối các người khác,
Ðánh giết, làm sầu khổ,
Hung bạo, áp đảo người.
743. Như người mạnh đẽo gỗ,
Dùng nêm đánh bật nêm,
Cũng vậy là kẻ thiện,
Dùng căn đánh bật căn.
745. Tu tập tín, tấn, định,
Huấn luyện niệm, trí tuệ,
Dùng năm đánh đổ năm,
Không tỳ vết bước tới.
746. Là vị Bà-la-môn,
Người có đích, trú pháp,
Làm theo giáo huấn Phật,
Làm toàn diện, toàn lực,
Người ấy hưởng an lạc.
Bài viết được Đạo Phật Nguyên Thủy trích từ Kinh Tiểu Bộ
Do Hòa thượng Thích Minh Châu dịch từ tiếng Pali
Nhận xét
Đăng nhận xét